Ý Nghĩa Lá Cờ Vàng
Gần đây hơn một năm nay, nhiều quận hạt trên nước Mỹ đã phát động chiến dịch vinh danh lá Cờ Vàng ba sọc đỏ, của cộng đồng người Việt định cư ở hải ngoại. Các cháu, và anh chị đã nghe thấy nhan nhản trên diễn đàn, trên báo, trên radio, về vấn đề vinh danh này. Lá Cờ Vàng là biểu tượng của Tự do, Độc lập và Dân chủ của truyền thống dân tộc Việt nam từ bao đời. Lá cờ đã thăng trầm suốt hai ngàn năm lịch sử, mà ông cha ta nhiều đời đã hy sinh xương máu để bảo vệ nó. Từ năm 1975, gần ba mươi năm Cờ Vàng vắng bóng, ngày nay Cờ Vàng đã sống lại như một hiện tượng hồi sinh.
Cờ Vàng, lá cờ Quốc Gia Việt Nam, có nền vàng và ba sọc đỏ. Màu vàng là màu quốc thổ và cũng là màu da của dân tộc Việt. Theo vũ trụ quan của người Việt, màu vàng thuộc về hành thổ và có vị trí trung ương, tượng trưng cho lãnh thổ, chủ quyền của quốc gia. Màu đỏ thuộc hành hỏa và là màu của phương Nam. Đây là biểu tượng của một dân tộc bất khuất, anh hùng, và độc lập trong cõi trời Nam, tách biệt hẳn với nước Tàu ở phương Bắc. (Trong bài Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi.) Ba sọc đỏ tượng trưng cho ba miền: Bắc, Trung, Nam. Tuy gọi là ba miền (ba sọc đỏ) nhưng có chung một nhà (nền vàng). Đó là nhà Việt Nam, mà con dân nước Việt phải biết thương yêu và qúy trọng lẫn nhau.
Vào năm 40 Dương Lịch, Hai Bà Trưng dùng “Đầu voi phất ngọn cờ Vàng” đem quân đánh Tô Định để lập quốc xưng Vương. Cờ Quẻ Ly (cờ vàng có hai sọc đỏ nằm giữa) của chính phủ Trần Trọng Kim (1945) bắt nguồn từ lá cờ vàng thời Hai Bà Trưng, cờ vàng đời Gia Long (1802), và cờ Long Tinh đời Khải Định (1916). Tiếp đến, năm 1948, Quốc Trưởng Bảo Đại đã thêm một sọc ở giữa và cho hai sọc đỏ nối liền từ cờ Quẻ Ly tạo thành lá cờ có Nền Vàng Ba Sọc Đỏ. Ba sọc đỏ này có hình Quẻ Kiền (Quẻ Càn) tượng trưng cho trời Nam, tức là nước Việt Nam chúng ta.
Tuy bắt nguồn từ đời Hai Bà Trưng, lá cờ Vàng, cờ Quốc Gia Việt Nam đã được Thiếu Tướng Nguyễn Văn Xuân, đứng đầu Chính Phủ Lâm Thời Quốc Gia Việt Nam ký Sắc Lệnh số 3 ngày 2 tháng 6 năm 1948 với những tiêu chuẩn về lá quốc kỳ của nước Việt Nam như sau: “Biểu hiệu Quốc Gia là một lá cờ nền vàng, chiều ngang bằng 2/3 chiều dài, giữa có ba sọc đỏ, rộng bằng 1/15 chiều dọc và khoảng cách bằng nhau đi suốt lá cờ.”
Cờ Vàng, cờ Quốc Gia Việt Nam được hun đúc bằng khí thiêng trời đất, và tinh thần quật khởi của dân tộc Việt suốt gần hai ngàn năm lịch sử. Nó tượng trưng cho hồn thiêng sông núi, cho vận hội thái hòa, và cho sự thành công vĩnh cửu của giống nòi Việt Nam. Kể từ thời Hai Bà Trưng, lá cờ Quốc Gia Việt Nam đã được biến cải để có hình dạng màu sắc như hiện nay. Lá cờ có một ý nghĩa cao cả, và đã thăng trầm với lịch sử oai hùng của dân tộc Việt. Nó nhuốm khí thiêng sông núi, tượng trưng cho Dân chủ, Tự do, Nhân quyền, cho ý chí kiêu hùng của nòi giống Việt, cho thanh bình thịnh trị của muôn dân, và cho đoàn kết dân tộc trong việc giữ nước và dựng nước của tổ tiên ta.
Lá Cờ Quốc Gia Việt Nam là linh hồn của cả dân tộc Việt. Lá cờ còn, chính nghĩa còn. Lá cờ còn, tinh thần chiến đấu còn. Lá cờ còn, sự đoàn kết còn, nó là tín bài để chúng ta nhận diện giữa người Việt Quốc Gia và bè lũ Cộng Sản. Chỗ nào có cờ Quốc Gia Việt Nam, thì chỗ đó có tình thương, có dân chủ, có tự do, và nhân quyền. Trong khi chiến đấu với kẻ thù, lá cờ vàng ba sọc đỏ tượng trưng cho Chính Nghĩa Quốc Gia Tự Do. Hiện tình của chúng ta ở hải ngoại là đang trực diện sống còn với Cộng Sản tại Việt Nam, mà lá cờ Vàng là biểu tượng cho chính nghĩa ấy. Biểu tượng chính nghĩa Tự Do là lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ. Có giương cao lá cờ chính nghĩa, ta mới có đoàn kết, và thu hút được nhân tâm để áp lực bắt tập đoàn Cộng Sản Việt Nam phải qui hàng và từ bỏ chế độ Cộng Sản mà chúng đang theo đuổi.
Người Việt yêu tự do, dân chủ, ở trong nước cũng như ở hải ngoại, mỗi khi nhìn thấy Lá Cờ Vàng, là còn có niềm tin và hy vọng cho Việt Nam Tự Do trong tương lai. Trong khi Việt Nam chưa lật đổ được chế độ Cộng sản bạo tàn, và Cờ Vàng chưa chánh thức tung bay trên toàn cõi Việt Nam, nhiệm vụ người Việt hải ngoại là vinh danh lá cờ ấy. Nơi nào có người Việt Nam quốc gia, nơi đó có Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ. Tuy Quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ không chánh thức được công nhận trong nước, nhưng mọi người Việt Nam ở quốc nội đều biết rằng, đó là lá cờ tượng trưng cho nền độc lập, và tự do của Tổ Quốc, chống lại chế độ độc tài, bạo tàn của Cộng sản, phi nhân và nô lệ cho ngoại bang. Bên ngoài Việt Nam, Cờ Vàng được người ngoại quốc xem là biểu tượng của phía người Việt Nam chống Cộng Sản. Nơi nào tỏ bày lòng tôn vinh Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, nơi ấy người Việt quốc gia đã đóng góp to lớn vào công cuộc giải phóng đất nước, chống lại ách thống trị của Cộng Sản Việt Nam.
Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, mới chính là lá cờ của một quốc gia Việt Nam, để phân biệt với cờ đỏ sao vàng, lá cờ Máu của cộng sản Việt nam. Cờ đỏ của cộng sản VN gốc là cờ tỉnh Fuzhou của Trung Quốc vào năm 1933- 1934, theo tài liệu Thế giới về nước Trung hoa (1*). Trong khi cờ Vàng tượng trưng cho Tự do, Dân chủ và Nhân quyền, thì cờ Máu tượng trưng cho chết chóc, đói nghèo và tang thương cho dân tộc Việt…
Với lịch sử huy hoàng suốt gần hai ngàn năm của lá cờ Quốc Gia Việt Nam, chúng ta cầu mong Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ sẽ rợp bay khắp mọi nhà người Việt Quốc Gia tại hải ngoại, và một ngày gần đây trên khắp trời quê hương. Quốc kỳ Việt nam là biểu tượng của Hồn Thiêng Sông Núi, của Dân Chủ Tự Do, và Nhân Quyền, mà biết bao thế hệ cha ông ta đã đổ máu để gìn giữ. Lá cờ Vàng, lá cờ Quốc Gia Việt Nam đã trải qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử, nhưng tự nó vẫn tồn tại trong lòng người Việt ở khắp mọi nơi. Nó đã đổi lấy bằng bao nhiêu xương máu cuả các chiến sĩ, và vinh nhục cuả tất cả chúng ta. Vì tiền đồ dân tộc, vì tự chủ quốc gia, nó chính là sự khát vọng cho hòa bình, và tương lai của một Việt nam sáng lạng trong cộng đồng các quốc gia trên toàn thế giới. Do đó,
- Để tưởng nhớ công ơn tiền nhân, và gần đây của Quân, Dân, Cán, Chính, đă hy sinh bỏ mình trong cuộc chiến chống cộng sản tại Việt nam;
- Để tích cực yểm trợ chiến dịch vinh danh Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ của người Việt hải ngoại đang định cư trên nước Mỹ và trên toàn thế giới;
- Để duy trì sức mạnh chiến đấu, đòi tự do dân chủ và nhân quyền cho nhân dân Việt Nam, và nhắc nhở con cháu về Ý Nghĩa của ngọn cờ Chính Nghĩa- Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, cờ Quốc Gia Việt Nam Tự do. Ngày xưa chúng ta cầm súng, ngày nay cầm cờ. Để vinh danh cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, đặt niềm tin và hy vọng mới trong tương lai, yêu cầu nhà nhà treo cờ vàng, người Việt nhớ đến cờ Vàng vì đây là biểu tượng của Tổ Quốc Việt Nam mến yêu cuả chúng ta.
Chúng ta những người Việt tỵ nạn cộng sản trên thế giới, tuy sống xa quê hương nhưng được hưởng mọi quyền tự do, dân chủ và nhân quyền. Trước năm 1975, chúng ta cầm súng để chiến đấu, đối diện với kẻ thù đầy nguy hiểm. Ngày nay chúng ta chỉ cần tích cực cầm cờ để chiến đấu, để bày tỏ lòng yêu tự do và nhân bản, tôn trọng quyền làm người, vì lá cờ Vàng là biểu tượng Tự Do Công bằng, và Dân Chủ. Chúng ta đại diện cho người Việt yêu tự do, nói lên ý chí, nguyện vọng, niềm tin và ước mơ của toàn dân tộc Việt nam trong nuớc, đang bị một chính thể vô thần, độc tài đang khống chế và cai trị tàn ác.
Như chúng ta đã biết, vận mệnh của một số dân tộc chậm tiến trên thế giới, trong đó có Việt nam, đã bị cuốn theo sức ép của bàn cờ chính trị quốc tế. Dân tộc Việt nam là con dê tế thần trong hai cuộc chiến tranh, từ Pháp đến cộng sản. Hai cái hiệp định Genève (1954) và Paris (1973), đã đưa dân Việt nam lên bàn mổ quốc tế, mà hầu hết người Việt không hề hay biết đến. Năm 1975, phe tự do đã thua trận ở Việt nam, và sau đó phe cộng sản đã thua trận ở Liên xô, cái gốc rể to lớn cuả phe cộng sản. Hiện nay ở quê nhà, 80 triệu đồng bào ruột thịt đang đau khổ vì đói nghèo, tù tội và mất tự do. Ở đó nhân vị, nhân quyền bị chà đạp chính trên quê hương mình.
Hy vọng vào sự đồng tâm nhất trí đấu tranh của người Việt hải ngoại, chúng ta hãy giương cao ngọn cờ chính nghĩa, để bày tỏ một nỗ lực, một ý chí chính đáng cho tự do độc lập của dân tộc Việt nam. Đây là bước mở đầu cho tiến trình dân chủ, tự do cho quê hương Việt nam mến yêu của chúng ta. Ước mơ sau cùng của anh và tôi là: nếu chết ở đây xin được phủ lá cờ Vàng, và hy vọng rằng cờ Vàng sẽ tung bay trên khắp trời Việt nam một ngày không xa..Việt nam sẽ là một Ba Lan thứ hai, hay như các nước Đông Âu tự giải thể để tồn sinh. Việt Cộng tự nó sẽ phải triệt tiêu nhờ vào ý chí đấu tranh của chúng ta từ hải ngoại. Phải chăng đây cũng là ước vọng chung của tất cả chúng ta: các con, anh và tôi, những người Việt tha hương…yêu tự do và yêu tổ quốc Việt nam?
1*(Mạng lưới http://worldstatesmen.org/China.html thấy có lịch sử lá cờ máu cộng sản Việt nam.)
Phạm Đào Nguyên
Cuộc Di Tản Của Trường VBQGVN Và Người Thương Binh
Cưụ SVSQ Phan Văn Lộc K30
Trong buổi tiệc của Hội Võ Bị Âu Châu, niên trưởng Nguyễn Thanh Đoàn K21, thuộc Bộ Chỉ Huy trường Võ Bị, kể cho Phạm Xuân Sơn K30 nghe việc trường Võ Bị di chuyển khỏi Đà lạt vào những ngày cuối tháng 3/1975. Khi di chuyển về đến Bình Tuy thì có một SVSQ khóa 30 bị thương nặng, khó sống được trong hoàn cảnh hỗn độn thiếu thốn trăm bề, nhưng NT Đoàn vẫn cầu nguyện xin ơn trên ban cho người SVSQ đó được tai qua nạn khỏi. Cho đến ngày hôm nay trong lòng niên trưởng vẫn nghĩ đến người SVSQ bị thương đó và không biết sống chết thế nào? Niên trưởng Đoàn hỏi Sơn có biết tin tức về người bạn đồng khóa đó không? Cảm động trước tấm lòng của người sĩ quan đàn anh, Sơn đã cho NT Đoàn biết người bị thương đó là Phan Văn Lộc, còn sống và hiện đang ở Mỹ.
Đó là tóm tắt nội dung email của Sơn gửi cho tôi kèm theo số phôn và địa chỉ email của niên trưởng Đoàn. Tôi, Phan Văn Lộc, khóa 30 rất xúc động trước tấm chân tình của niên trưởng Nguyễn Thanh Đoàn K21 nên đã tiếp xúc ngay với NT. Chuyện bị thương và tử thương trên chiến trường, trên đường đi tản là quá bình thường, hơn nữa sự việc đã xảy ra cách nay ba mươi mấy năm đi vào quên lãng là chuyện thường tình. Nhưng một sĩ quan còn nhớ tới vết thương của một SVSQ mà ông không biết tên, thì quả thật không bình thường chút nào mà đầy lòng nhân ái.
Là em áp út trong một đại gia đình có truyền thống tôn ti, tôi xin cám ơn tấm lòng của niên trưởng Nguyễn Thanh Đoàn, của các niên trưởng K21, của tất cả quý niên trưởng. Xin cám ơn trường Mẹ, trường VBQGVN đã sản sinh ra những người con đầy “tình tự Võ Bị” và rồi trở thành những cấp chỉ huy đầy ắp tình đồng đội, tình chiến hữu ngoài chiến trường.
Câu chuyện xảy ra đã hơn ba mươi mấy năm, giờ đây nhờ những buổi họp mặt, nhờ nhắc lại kỷ niệm cũ, chiến trường xưa của niên trưởng Đoàn khiến dĩ vãng trở về như một cuốn phim quay lại trước mắt tôi, xin phép quý huynh đệ cho tôi kể lại chuyện xưa, chuyện những SVSQ bỏ trường mà ra đi vào nơi lửa đạn.
Sau khi mãn mùa quân sự năm thứ hai và bước vào mùa văn hóa, khóa 30 cũng như các khóa khác khi đi học văn hóa vẫn phải trang bị vũ khí đầy đủ để sẵn sàng tác chiến vì tình hình chiến sự bên ngoài càng ngày càng trở nên khốc liệt. Ngày 30 tháng 3 năm 1975, lúc 3 giờ chiều Trung Đòan SVSQ được lệnh trở về doanh trại để chuẩn bị cuộc di hành xa với đầy đủ hỏa lực tác chiến. Khỏang hơn 4 giờ chiều, liên đội G, H rời khỏi trường Mẹ bằng cổng Nam Quan trên 4 chiếc GMC. Ra đi lần nầy chúng tôi không ngờ đây là lần vĩnh biệt ngôi trường thân yêu mà chúng tôi đã sống một năm 4 tháng 4 ngày 15 giờ.
Liên đội G, H chúng tôi được đưa xuống bảo vệ Cầu Đất, còn các liên đội khác thì trải dài cho đến đập thủy điện Đa Nhim. Ngày hôm sau dân cư trong thị xã Đà Lạt biết được các SVSQ đã rời trường Võ Bị nên họ bắt đầu bỏ Đà lạt để ra đi. Đến 7 giờ tối chúng tôi được lệnh của Trung Đoàn di chuyển theo hai bên lề đường để bảo vệ cho dân Đà Lạt di tản, chúng tôi đi bộ suốt đêm mãi đến 5 giờ sáng hôm sau chúng tôi mới qua khỏi đèo Sông Pha thuộc quân Đơn Dương và dừng quân tại đây chờ các liên đôi khác tập hợp đầy đủ.
Vì liên đội G, H đi đầu nên chúng tôi có thời giờ nghỉ chân chờ cho cả Trung Đòan tập hợp đầy đủ dưới chân đèo Sông Pha. Tôi nằm đại bên lề đường, đầu gác lên balo đưa mắt nhìn chung quanh, bạn bè trong đại đội nằm rải rác khắp nơi, xa xa từng đoàn người di tản từ Đà Lạt, theo quốc lộ hướng về Bình Tuy. Cả một đoàn người hỗn độn, nào là tiếng động cơ của GMC, xe dân chính và tiếng người hoà lẫn nhau như một điệu nhạc quay cuồng mặc dù trong tâm tư của tôi trầm lắng và buồn bã về cuộc di tản nầy. Tôi nghĩ là chúng tôi không thể nào trở về ngôi trường thân yêu đựơc nữa, rồi giấc ngủ đã đến với tôi lúc nào tôi không hay, mãi cho đến khi bị cái đá của một người bạn đồng khóa vào chân tôi mới chợt tỉnh dậy thì trời đã sáng. Nhìn đồng hồ tay tôi thấy kim chỉ 7 giờ 30 sáng, cả Trung Đoàn SVSQ được lệnh tập hợp và lần lượt lên xe GMC để tiếp tục cuộc hành trình hướng về Bình Tuy. Lần nầy cuộc hành trình của Trung đòan SVSQ không lẻ loi vì có thêm vị Chỉ huy trưởng khả kính của chúng tôi là Thiếu Tướng Lâm Quang Thơ dẫn đầu mặc dù ông có sẳn trực thăng dành riêng cho ông.
Đòan xe của chúng tôi đi đầu, theo sau là cả một đòan người di tản, hễ xe của chúng tôi đi đến đâu là dân chúng bỏ nhà đi theo bằng đủ mọi phương tiện mà họ có thể dùng, kể cả xe bò tạo nên một làn sóng người khổng lồ di tản xuôi Nam. Xe chúng tôi chạy qua Phan Rí. Tôi nhận thấy nơi đây không còn chính quyền kiểm soát nữa, cướp bóc nổi lên khắp nơi. Mãi đến chiều ngày hôm đó, chúng tôi được lệnh dừng quân tại Phan Thiết và Trung Đòan SVSQ đóng quân phòng thủ trong trường Tiểu Học cách toà tỉnh trưởng không xa.
Một đêm an lành trôi qua. Đang đắm chìm trong giấc ngủ, quên hết cả trời đất sau một cuộc hành trình mệt mỏi thì chúng tôi bị đánh thức bởi một tiếng nổ long trời lở đất. Bừng tỉnh dậy tôi mới biết Việt Cộng đang pháo kích vào Phan Thiết, một trái đã rơi trúng hầm xăng của toà tỉnh trưởng, một cụm lửa bốc cao hơn 20 thước mặc dù tôi đứng tại trường tiểu học. Ngay lúc đó chúng tôi được lệnh phân tán mỏng, vì sợ sau khi pháo kích Việt Công sẽ tấn công. Chờ mãi không thấy động tỉnh gì trung đòan được lệnh tập hợp và lên xe tiếp tục cuộc hành trình tiến về Bình Tuy.
Lúc nầy trên quốc lộ về Bình Tuy chúng tôi di chuyển rất khó khăn vì làn sóng người di tản quá đông kể cả dân chúng cùng quân đội từ vùng 1 chạy về tạo nên một đoàn người di tản vô trật tự. Biết bao nhiêu cảnh thương tâm đã xảy ra trước mắt tôi. Nào cha mẹ lạc mất con, vợ mất chồng, người chết vì đạn lạc, kẻ chết vì bị rơi xuống đường bị xe cán, thân xác họ được người đồng hành mang để đại bên lề đường! Click here to view the original image of 628x479px.
Xế chiều, đòan xe của chúng tôi đến ngã ba Bình Tuy, nơi đây có một chiếc cầu bắc qua con kinh nhỏ nhưng mùa nây không có nước chảy qua và cầu đã bị VC giựt mìn xập từ lâu, được công binh sửa chửa tạm bằng những vỉ sắt của phi đạo để cho xe qua tạm. Kế bên cầu có một ngọn đồi, địa phương quân đóng giữ để bảo vệ cầu. Khi đòan xe của chúng tôi qua cầu thì bị địa phương quân bắn xuống không cho qua nên Tướng Thơ điện vào Bình Tuy hỏi thì được Tướng Nhật (K10) tư lệnh chiến trường Bình Tuy cho biết vì giữ an ninh cho tỉnh ông không cho lệnh vào Bình Tuy khi trời tối nên Tướng Thơ ra lệnh cho Trung Đòan SVSQ nghỉ lại qua đêm, chờ sáng sẽ tính sau.
Hôm sau, 5 giờ sáng, được lệnh của Tướng Thơ, Trung Đòan SVSQ bắt đầu di chuyển vào Bình tuy, dẫn đầu là thiết giáp M113, một xe jeep, một chi đội Thiết Giáp, một đại đội Biệt Động Quân, tất cả đều chịu dưới quyền chỉ huy của Tướng Thơ. Không ngờ khi chiếc xe jeep đã qua được bên kia cầu, xe M113 còn đang ở giữa cầu thì bị 2 trái B40 của VC từ trên đồi bắn xuống, một trái làm cháy chiếc M113, trái khác làm lật chiếc xe jeep. Tôi đứng trên chiếc xe GMC cách xa hơn 200 thước. Trước xe GMC là xe của Tướng Thơ và chiếc thiết giáp của trường do Đại Úy Lập chỉ huy.
Trước sự việc xảy ra như vậy Tướng Thơ mới ra lệnh cho NT Cần, thủ khoa K20 là giáo sư của Trường gọi điện vào BT thì được biết đồn Đia Phương Quân trú đóng trên đồi đã bị mất liên lạc hồi 12 giờ đêm hôm qua. Phải diệt chốt để vượt qua, Tướng quân ra lệnh phá chốt để vào Bình Tuy, những chiếc thiết giáp được dàn hàng ngang và SVSQ cùng Biệt Động Quân từng chiếc tiến lên chiếm đồi.
VC từ trên đồi bắn xối xả xuống, nào là đại liên, B40, và AK47, cho nên tôi, NT Xù K28 cùng NT Hoà K27 (SĐI, từ vùng 1 về, gặp trường di tản nên đi chung luôn) nhảy xuống mô đất gần đó để tránh đạn.
Chúng tôi nghe một tiếng nổ thật lớn, buị cát bay mịt trời, sau đó chúng tôi kiểm soát lại coi có ai bị thương không? Nhìn qua NT Xù tôi thấy tay của NT bị một mảnh đạn trúng chảy máu, tôi nói:
_“ Tay của NT bị thương rồi, để tôi băng cho”.
Tôi lấy băng cá nhân trên nón của NT Xù để băng cho anh. Trong lúc tôi đang băng thì NT Xù nhìn nơi ngực của tôi có vết máu chảy ra, NT la lên:
_ “Ngực anh Lộc cũng bị thương”.
Tôi vội vạch aó ra thì thấy ở ngực bên phải có một lỗ nhỏ và máu đang chảy ra, NT Hoà nghe được vội chạy tới bắt tôi nằm xuống và băng vết thương cho tôi, đồng thời NT la lớn lên:
_ “Lộc đã bị thương nặng, có y tá nào gần đây xin tiếp cưú”.
May có một anh y tá của trường ở gần đó chạy đến và băng bó cho tôi, có lẽ do kinh nghiệm cứu thương, anh thấy tôi bị ở ngực lại thở khò-khè nên anh biết tình trạng của tôi, anh vội ta la lên:
“Anh nầy bị thương xuyên qua phổi, cần phải đưa vào bệnh viện gấp, nếu không máu sẽ đông lại rất nguy hiểm đến tính mạng”.
May cho tôi, có một NT K26 (tôi quên tên) mang được một chiếc xe jeep từ trường về, NT vội chạy đến dìu tôi lên xe và la to:
_ “Có anh SV nào theo tôi đưa anh nầy vào bệnh viện không?”.
Người bạn thân cùng trung đội là Võ Đình Nhân nhảy lên xe ôm tôi cho NT chạy xe về hướng Bình Tuy. Mặc dù nửa người của tôi tê cứng, nhưng đầu óc tôi vẫn còn tỉnh táo, tai tôi vẫn con nghe tiếng đạn hai bên nổ dòn …rồi dần dần tôi thiếp trong hôn mê không còn biết gì nữa….Tôi bừng tỉnh dậy khi ai nắm vai lay động và nghe tiếng Võ Đình Nhân nói:
_ “Lộc! Lệnh trên không cho lính đi tản lẻ tẻ vào Bình Tuy nên tao chỉ được đưa mầy đến đây, NT K26 và tao sẽ đỡ mầy xuống đây để chờ xe cứu thương đưa mầy vào bệnh viện. Mầy yên tâm, NT Nhật đã gọi xe cưú thương rồi tới rồi. Tao phải trở lại chỗ cũ để di chuyển theo trường, chúc mầy bình an”.
Tôi nhờ Nhân lấy sợi dây chuyền tôi đang đeo trong cổ ra, sợi dây chuyền có tượng Phật mà bà nội tôi đã đeo vào cổ tôi trước khi từ giã gia đình để vào trường Võ Bị. Cầm tay Nhân tôi nói:
_ “Nhân, mày giúp tao, đưa sợi dây chuyền nầy cho bà nội tao, nói với bà nếu tao không về là tao đã chết, bà đừng ra đây tìm xác tao rất nguy hiểm, tao cảm ơn mầy, tạm biệt..”.
Chưa nói hết câu “tạm biệt mày và niên trưởng..” thì tôi thiếp đi, hồn lâng lâng như đi vào khoảng không, tất cả những hình ảnh từ thời ấu thơ, hình ảnh những người thân yêu trong gia đình kể cả hình ảnh của người yêu lần lượt hiện ra trong trí tôi. Sau nầy khi nghe tôi kể lại, những người lớn tuổi cho biết đó là sự việc xảy ra cho người sắp lìa đời. Thấm nhuần triết lý của đạo Phật do ông bà nội tôi thường giảng dạy, tôi nghĩ đời sống con người có sinh thì phải có tử, đó là định luật tự nhiên của tạo hoá cho nên lúc đó lòng tôi rất bình thản, cũng may vì nửa bên người không còn cảm giác nên tôi không cảm thấy đau đớn vì vết thương.
Tôi bị đánh thức bởi một tiếng nói rất to:
_ “ Các anh đưa anh SV nầy đến bệnh viện ngay”.
Tôi vội đưa mắt nhìn về phía phát ra tiếng nói, tôi nhìn thấy một quân nhân đứng trên thiết vận xa M113, trên nón sắt của ông có 2 ngôi sao, bảng tên là Trần Văn Nhật. Sau nầy tôi mới biết là Tướng Trần văn Nhật K10 xuất thân từ trường VBQGVN, lúc đó ông là Tư Lệnh chiến trường Bình Tuy.
Người đứng đối diện với Tướng Nhật là một vị Đại Uý Quân y, ông chào đáp lễ Tướng Nhật rồi quay qua giúp anh y tá đưa tôi lên xe cứu thương, hối anh tài xế chạy lẹ lên.
Tôi chợt thấy niên trưởng K26 và Nhân còn tần ngần đứng đó, họ chưa đi mà còn ở lại với tôi cho tới khi xe cứu thương từ trong Bình Tuy đến. Xúc động biết chừng nào, có lẽ tim tôi bóp mạnh và mắt tôi mờ đi, tôi chỉ kịp nhận ra những bàn tay huynh đệ trường mẹ vẫy vẫy khi xe tải thương rồ máy, tôi muốn vẫy tay lại “vĩnh biệt” các anh nhưng đưa tay lên không được khiến tôi nấc lên mấy lần. Thấy vậy người bác sĩ ngồi bên cạnh vỗ vỗ nhẹ lên ngực tôi an ủi:
_ “Trước đây tôi có phục vụ tại Trường Võ Bị một thời gian nên tôi xem anh như người thân, anh đừng lo, tôi sẽ tận tình giúp anh”.
Đến bệnh viện, ông tìm Đại Úy Bác sĩ Trưởng ngay để chữa cho tôi. Lúc đó miệng tôi cứng lại, không nói được nhưng đầu óc vẫn còn tỉnh táo. Bác sĩ lấy tên và loại máu trên thẻ bài của tôi xong gọi 2 y tá đưa tôi vào phòng cấp cứu và chính tay ông đã giải phẫu thông phổi cho tôi. Xong phần giải phẫu và băng bó vết thương, ông nói sẽ tiếp máu cho tôi, vì tôi bị mất máu nhiều quá nhưng rất tiếc loại máu của tôi không còn, ông nói sẽ cố gắng tìm kiếm những quân nhân và thương binh nhẹ trong bệnh viện có cùng loại máu .
Nghe BS nói mà tôi lòng tôi vẫn bình thản, tôi nghĩ nếu số tôi còn sống thì ơn trên sẽ giúp cho tôi tìm được người cùng máu. Một lúc sau BS trở lại nói:
_“Mạng anh lớn lắm vì có một anh lính TQLC bị thương nhẹ có cùng loại máu với anh và chịu hiến máu cho anh, tôi cảm ơn dùm anh rồi”
Tôi đã nhận máu của một người lính mà tôi không biết mặt biết tên, ơn nghĩa nầy tôi không biết sao đền đáp chỉ biết cầu Trời Phật cho anh vạn sự an lành. Sau đó tôi đã thiếp đi, khi tôi tỉnh dậy thì trời đã tối, nhìn đồng hồ trên tường, kim chỉ 9 giờ tối, đảo mắt nhìn quanh tôi thấy thương binh nằm chật kín cả phòng, không đủ chỗ phải nằm trên băng ca.
Một đêm an bình trôi qua tại bệnh viện Bình Tuy, khỏang 10 giờ sáng, một bác sĩ đến thăm tôi và kể cho tôi biết ông tốt nghiệp trường Quân Y, mỗi năm khi đến mùa quân sự, khóa của ông phải ra Đà Lạt thụ huấn chung với khoá 19 Võ Bị do đó ông luôn nghĩ ông cũng xúất thân từ trường VB nên ông tận tình với tôi như đàn em. Tôi và ông tâm sự với nhau, một lúc sau ông nói:
_ “Tôi sẽ tìm một cô y tá có gia đình ở Saì Gòn để cho theo anh về Tổng Y Viện Cộng Hoà nội trong chiều nay, 3 giờ chiều sẽ có chuyến bay chở thương binh về bệnh viện Cộng Hoà. Tôi nghĩ Bình Tuy sẽ mất, với tình trạng vết thương quan trọng này, anh sẽ gặp nguy hiểm lắm nếu không được tiếp tục săn sóc”.
Nói xong ông cầm tay tôi thật lâu, lắc lắc như muốn nói thêm rồi ra đi. Tôi nhắm mắt ngủ một giấc cho đến khi nghe một giọng nói trong trẻo của một người con gái đánh thức tôi dậy. Trước mắt tôi là bác sĩ và một cô y tá đứng kế bên, ông giới thiệu cô tên là Hồng, cô sẽ săn sóc và theo tôi về Saì Gòn và cô sẽ ở lại Sài Gòn. À ra thế, nhất cử lưỡng tiện, chứ mạng sống của một SVSQ chưa một ngày ra trận dễ gì được ưu đãi đặc biệt như thế. Nhưng tôi vẫn thấy vui nên nói lời cám ơn vị bác sĩ và cô y tá Hồng .
Khi về đến Tổng Y viện Cộng Hoà tôi được đưa vào phòng cấp cứu để BS giải phẫu lại một lần nữa.Tôi mê man và khi tỉnh dậy thấy mình đang nằm phòng khác là phòng hồi sinh ở tầng hai, đó là ngày 5 tháng 4 năm 1975, ngày mà tôi không bao giờ quên được vì khoảng 9 giờ 30 sáng tên phản bội Nguyễn Thành Trung đã dội bom vào dinh Độc Lập.
Tôi nằm ở đây được một tuần, trong thời gian nầy tôi nhờ người báo tin cho gia đình lên thăm. Sau đó tôi được chuyển qua khu phục hồi của sĩ quan. Vì thiếu phòng nên 3 người ở chung một phòng. Trong phòng tôi gồm có một chuẩn uý Địa Phương Quân bị thương ở bụng, ruột già phải cho ra ngang hông, một thiếu uý Lôi Hổ bị đạn xuyên từ cằm lên đầu, anh nằm đây hơn 3 tháng để chờ tái giải phẩu. Lúc nào trên môi anh cũng nở nụ cười và luôn miệng hát:
_ “Trên nòng súng quê hương…tổ quốc đã nghiêng mình…”.
Đến hôm nay tôi không biết vị thiếu úy đó còn sống hay đã chết vì ngày 30 tháng 4 khi VC vào Saìgòn, chúng đã đuổi tất cả thương bệnh binh VNCH ra khỏi bệnh viện. Những ngày sau đó tình hình Sai Gòn thêm sôi động, gia đình tôi ở Sai Gòn đã đưa tôi về nhà, mời y tá đến săn sóc vết thương cho tôi…
Tôi chỉ là một người lính chưa ra trận mà đã bị trọng thương và đã may mắn được mọi người thương, cứu tôi khỏi bàn tay của tử thần trong khi những quân nhân chiến đấu thực sự trên chiến trường thì không được may mắn như tôi, biết bao các anh đã nằm xuống bên vệ đường, trong rừng sâu, trên đồi cao để đồng bào được bình an. Đã ba mươi mấy năm qua, vết thương trên da thịt tôi đã lành nhưng vết thương lòng vẫn còn đang rỉ máu. Tôi không bao giờ quên được ngày 30 tháng 4, lúc 9 giờ sáng, tôi chết lặng người khi nghe trên đài phát thanh tiếng của Tổng Thống Dương Văn Minh ra lệnh cho quân nhân các cấp buông súng đầu hàng!!! Gần đến ngày đau buồn của đất nước, tôi xin chia sẻ niềm đau cùng những người trai trẻ như tôi với bầu nhiệt huyết và mộng tang bồng hồ thỉ mang hoài bão lấp biển vá trời phải đành gián đọan nửa đường với lòng uất hận…
Tôi viết lên những dòng chữ nầy để gởi lời tri ân đến các niên trưởng, bác sĩ, y tá, bạn cùng khóa, những quân nhân các đơn vị bạn đã giúp đở, cứu mạng sống của tôi. Những tấm chân tình đó đã nói lên tình tự Võ Bị của các cưụ SVSQ cũng như những người đã từng một thời đến với Trường Mẹ, của những người cùng chung chiến tuyến. Tôi rất hãnh diện là một cưụ SVSQ của Trường VBQGVN, là một người lính của QLVNCH, hiện tại cũng như mãi mãi về sau…
Cưụ SVSQ Phan Văn Lộc K30
Cưụ SVSQ Phan Văn Lộc K30
Trong buổi tiệc của Hội Võ Bị Âu Châu, niên trưởng Nguyễn Thanh Đoàn K21, thuộc Bộ Chỉ Huy trường Võ Bị, kể cho Phạm Xuân Sơn K30 nghe việc trường Võ Bị di chuyển khỏi Đà lạt vào những ngày cuối tháng 3/1975. Khi di chuyển về đến Bình Tuy thì có một SVSQ khóa 30 bị thương nặng, khó sống được trong hoàn cảnh hỗn độn thiếu thốn trăm bề, nhưng NT Đoàn vẫn cầu nguyện xin ơn trên ban cho người SVSQ đó được tai qua nạn khỏi. Cho đến ngày hôm nay trong lòng niên trưởng vẫn nghĩ đến người SVSQ bị thương đó và không biết sống chết thế nào? Niên trưởng Đoàn hỏi Sơn có biết tin tức về người bạn đồng khóa đó không? Cảm động trước tấm lòng của người sĩ quan đàn anh, Sơn đã cho NT Đoàn biết người bị thương đó là Phan Văn Lộc, còn sống và hiện đang ở Mỹ.
Đó là tóm tắt nội dung email của Sơn gửi cho tôi kèm theo số phôn và địa chỉ email của niên trưởng Đoàn. Tôi, Phan Văn Lộc, khóa 30 rất xúc động trước tấm chân tình của niên trưởng Nguyễn Thanh Đoàn K21 nên đã tiếp xúc ngay với NT. Chuyện bị thương và tử thương trên chiến trường, trên đường đi tản là quá bình thường, hơn nữa sự việc đã xảy ra cách nay ba mươi mấy năm đi vào quên lãng là chuyện thường tình. Nhưng một sĩ quan còn nhớ tới vết thương của một SVSQ mà ông không biết tên, thì quả thật không bình thường chút nào mà đầy lòng nhân ái.
Là em áp út trong một đại gia đình có truyền thống tôn ti, tôi xin cám ơn tấm lòng của niên trưởng Nguyễn Thanh Đoàn, của các niên trưởng K21, của tất cả quý niên trưởng. Xin cám ơn trường Mẹ, trường VBQGVN đã sản sinh ra những người con đầy “tình tự Võ Bị” và rồi trở thành những cấp chỉ huy đầy ắp tình đồng đội, tình chiến hữu ngoài chiến trường.
Câu chuyện xảy ra đã hơn ba mươi mấy năm, giờ đây nhờ những buổi họp mặt, nhờ nhắc lại kỷ niệm cũ, chiến trường xưa của niên trưởng Đoàn khiến dĩ vãng trở về như một cuốn phim quay lại trước mắt tôi, xin phép quý huynh đệ cho tôi kể lại chuyện xưa, chuyện những SVSQ bỏ trường mà ra đi vào nơi lửa đạn.
Sau khi mãn mùa quân sự năm thứ hai và bước vào mùa văn hóa, khóa 30 cũng như các khóa khác khi đi học văn hóa vẫn phải trang bị vũ khí đầy đủ để sẵn sàng tác chiến vì tình hình chiến sự bên ngoài càng ngày càng trở nên khốc liệt. Ngày 30 tháng 3 năm 1975, lúc 3 giờ chiều Trung Đòan SVSQ được lệnh trở về doanh trại để chuẩn bị cuộc di hành xa với đầy đủ hỏa lực tác chiến. Khỏang hơn 4 giờ chiều, liên đội G, H rời khỏi trường Mẹ bằng cổng Nam Quan trên 4 chiếc GMC. Ra đi lần nầy chúng tôi không ngờ đây là lần vĩnh biệt ngôi trường thân yêu mà chúng tôi đã sống một năm 4 tháng 4 ngày 15 giờ.
Liên đội G, H chúng tôi được đưa xuống bảo vệ Cầu Đất, còn các liên đội khác thì trải dài cho đến đập thủy điện Đa Nhim. Ngày hôm sau dân cư trong thị xã Đà Lạt biết được các SVSQ đã rời trường Võ Bị nên họ bắt đầu bỏ Đà lạt để ra đi. Đến 7 giờ tối chúng tôi được lệnh của Trung Đoàn di chuyển theo hai bên lề đường để bảo vệ cho dân Đà Lạt di tản, chúng tôi đi bộ suốt đêm mãi đến 5 giờ sáng hôm sau chúng tôi mới qua khỏi đèo Sông Pha thuộc quân Đơn Dương và dừng quân tại đây chờ các liên đôi khác tập hợp đầy đủ.
Vì liên đội G, H đi đầu nên chúng tôi có thời giờ nghỉ chân chờ cho cả Trung Đòan tập hợp đầy đủ dưới chân đèo Sông Pha. Tôi nằm đại bên lề đường, đầu gác lên balo đưa mắt nhìn chung quanh, bạn bè trong đại đội nằm rải rác khắp nơi, xa xa từng đoàn người di tản từ Đà Lạt, theo quốc lộ hướng về Bình Tuy. Cả một đoàn người hỗn độn, nào là tiếng động cơ của GMC, xe dân chính và tiếng người hoà lẫn nhau như một điệu nhạc quay cuồng mặc dù trong tâm tư của tôi trầm lắng và buồn bã về cuộc di tản nầy. Tôi nghĩ là chúng tôi không thể nào trở về ngôi trường thân yêu đựơc nữa, rồi giấc ngủ đã đến với tôi lúc nào tôi không hay, mãi cho đến khi bị cái đá của một người bạn đồng khóa vào chân tôi mới chợt tỉnh dậy thì trời đã sáng. Nhìn đồng hồ tay tôi thấy kim chỉ 7 giờ 30 sáng, cả Trung Đoàn SVSQ được lệnh tập hợp và lần lượt lên xe GMC để tiếp tục cuộc hành trình hướng về Bình Tuy. Lần nầy cuộc hành trình của Trung đòan SVSQ không lẻ loi vì có thêm vị Chỉ huy trưởng khả kính của chúng tôi là Thiếu Tướng Lâm Quang Thơ dẫn đầu mặc dù ông có sẳn trực thăng dành riêng cho ông.
Đòan xe của chúng tôi đi đầu, theo sau là cả một đòan người di tản, hễ xe của chúng tôi đi đến đâu là dân chúng bỏ nhà đi theo bằng đủ mọi phương tiện mà họ có thể dùng, kể cả xe bò tạo nên một làn sóng người khổng lồ di tản xuôi Nam. Xe chúng tôi chạy qua Phan Rí. Tôi nhận thấy nơi đây không còn chính quyền kiểm soát nữa, cướp bóc nổi lên khắp nơi. Mãi đến chiều ngày hôm đó, chúng tôi được lệnh dừng quân tại Phan Thiết và Trung Đòan SVSQ đóng quân phòng thủ trong trường Tiểu Học cách toà tỉnh trưởng không xa.
Một đêm an lành trôi qua. Đang đắm chìm trong giấc ngủ, quên hết cả trời đất sau một cuộc hành trình mệt mỏi thì chúng tôi bị đánh thức bởi một tiếng nổ long trời lở đất. Bừng tỉnh dậy tôi mới biết Việt Cộng đang pháo kích vào Phan Thiết, một trái đã rơi trúng hầm xăng của toà tỉnh trưởng, một cụm lửa bốc cao hơn 20 thước mặc dù tôi đứng tại trường tiểu học. Ngay lúc đó chúng tôi được lệnh phân tán mỏng, vì sợ sau khi pháo kích Việt Công sẽ tấn công. Chờ mãi không thấy động tỉnh gì trung đòan được lệnh tập hợp và lên xe tiếp tục cuộc hành trình tiến về Bình Tuy.
Lúc nầy trên quốc lộ về Bình Tuy chúng tôi di chuyển rất khó khăn vì làn sóng người di tản quá đông kể cả dân chúng cùng quân đội từ vùng 1 chạy về tạo nên một đoàn người di tản vô trật tự. Biết bao nhiêu cảnh thương tâm đã xảy ra trước mắt tôi. Nào cha mẹ lạc mất con, vợ mất chồng, người chết vì đạn lạc, kẻ chết vì bị rơi xuống đường bị xe cán, thân xác họ được người đồng hành mang để đại bên lề đường! Click here to view the original image of 628x479px.
Xế chiều, đòan xe của chúng tôi đến ngã ba Bình Tuy, nơi đây có một chiếc cầu bắc qua con kinh nhỏ nhưng mùa nây không có nước chảy qua và cầu đã bị VC giựt mìn xập từ lâu, được công binh sửa chửa tạm bằng những vỉ sắt của phi đạo để cho xe qua tạm. Kế bên cầu có một ngọn đồi, địa phương quân đóng giữ để bảo vệ cầu. Khi đòan xe của chúng tôi qua cầu thì bị địa phương quân bắn xuống không cho qua nên Tướng Thơ điện vào Bình Tuy hỏi thì được Tướng Nhật (K10) tư lệnh chiến trường Bình Tuy cho biết vì giữ an ninh cho tỉnh ông không cho lệnh vào Bình Tuy khi trời tối nên Tướng Thơ ra lệnh cho Trung Đòan SVSQ nghỉ lại qua đêm, chờ sáng sẽ tính sau.
Hôm sau, 5 giờ sáng, được lệnh của Tướng Thơ, Trung Đòan SVSQ bắt đầu di chuyển vào Bình tuy, dẫn đầu là thiết giáp M113, một xe jeep, một chi đội Thiết Giáp, một đại đội Biệt Động Quân, tất cả đều chịu dưới quyền chỉ huy của Tướng Thơ. Không ngờ khi chiếc xe jeep đã qua được bên kia cầu, xe M113 còn đang ở giữa cầu thì bị 2 trái B40 của VC từ trên đồi bắn xuống, một trái làm cháy chiếc M113, trái khác làm lật chiếc xe jeep. Tôi đứng trên chiếc xe GMC cách xa hơn 200 thước. Trước xe GMC là xe của Tướng Thơ và chiếc thiết giáp của trường do Đại Úy Lập chỉ huy.
Trước sự việc xảy ra như vậy Tướng Thơ mới ra lệnh cho NT Cần, thủ khoa K20 là giáo sư của Trường gọi điện vào BT thì được biết đồn Đia Phương Quân trú đóng trên đồi đã bị mất liên lạc hồi 12 giờ đêm hôm qua. Phải diệt chốt để vượt qua, Tướng quân ra lệnh phá chốt để vào Bình Tuy, những chiếc thiết giáp được dàn hàng ngang và SVSQ cùng Biệt Động Quân từng chiếc tiến lên chiếm đồi.
VC từ trên đồi bắn xối xả xuống, nào là đại liên, B40, và AK47, cho nên tôi, NT Xù K28 cùng NT Hoà K27 (SĐI, từ vùng 1 về, gặp trường di tản nên đi chung luôn) nhảy xuống mô đất gần đó để tránh đạn.
Chúng tôi nghe một tiếng nổ thật lớn, buị cát bay mịt trời, sau đó chúng tôi kiểm soát lại coi có ai bị thương không? Nhìn qua NT Xù tôi thấy tay của NT bị một mảnh đạn trúng chảy máu, tôi nói:
_“ Tay của NT bị thương rồi, để tôi băng cho”.
Tôi lấy băng cá nhân trên nón của NT Xù để băng cho anh. Trong lúc tôi đang băng thì NT Xù nhìn nơi ngực của tôi có vết máu chảy ra, NT la lên:
_ “Ngực anh Lộc cũng bị thương”.
Tôi vội vạch aó ra thì thấy ở ngực bên phải có một lỗ nhỏ và máu đang chảy ra, NT Hoà nghe được vội chạy tới bắt tôi nằm xuống và băng vết thương cho tôi, đồng thời NT la lớn lên:
_ “Lộc đã bị thương nặng, có y tá nào gần đây xin tiếp cưú”.
May có một anh y tá của trường ở gần đó chạy đến và băng bó cho tôi, có lẽ do kinh nghiệm cứu thương, anh thấy tôi bị ở ngực lại thở khò-khè nên anh biết tình trạng của tôi, anh vội ta la lên:
“Anh nầy bị thương xuyên qua phổi, cần phải đưa vào bệnh viện gấp, nếu không máu sẽ đông lại rất nguy hiểm đến tính mạng”.
May cho tôi, có một NT K26 (tôi quên tên) mang được một chiếc xe jeep từ trường về, NT vội chạy đến dìu tôi lên xe và la to:
_ “Có anh SV nào theo tôi đưa anh nầy vào bệnh viện không?”.
Người bạn thân cùng trung đội là Võ Đình Nhân nhảy lên xe ôm tôi cho NT chạy xe về hướng Bình Tuy. Mặc dù nửa người của tôi tê cứng, nhưng đầu óc tôi vẫn còn tỉnh táo, tai tôi vẫn con nghe tiếng đạn hai bên nổ dòn …rồi dần dần tôi thiếp trong hôn mê không còn biết gì nữa….Tôi bừng tỉnh dậy khi ai nắm vai lay động và nghe tiếng Võ Đình Nhân nói:
_ “Lộc! Lệnh trên không cho lính đi tản lẻ tẻ vào Bình Tuy nên tao chỉ được đưa mầy đến đây, NT K26 và tao sẽ đỡ mầy xuống đây để chờ xe cứu thương đưa mầy vào bệnh viện. Mầy yên tâm, NT Nhật đã gọi xe cưú thương rồi tới rồi. Tao phải trở lại chỗ cũ để di chuyển theo trường, chúc mầy bình an”.
Tôi nhờ Nhân lấy sợi dây chuyền tôi đang đeo trong cổ ra, sợi dây chuyền có tượng Phật mà bà nội tôi đã đeo vào cổ tôi trước khi từ giã gia đình để vào trường Võ Bị. Cầm tay Nhân tôi nói:
_ “Nhân, mày giúp tao, đưa sợi dây chuyền nầy cho bà nội tao, nói với bà nếu tao không về là tao đã chết, bà đừng ra đây tìm xác tao rất nguy hiểm, tao cảm ơn mầy, tạm biệt..”.
Chưa nói hết câu “tạm biệt mày và niên trưởng..” thì tôi thiếp đi, hồn lâng lâng như đi vào khoảng không, tất cả những hình ảnh từ thời ấu thơ, hình ảnh những người thân yêu trong gia đình kể cả hình ảnh của người yêu lần lượt hiện ra trong trí tôi. Sau nầy khi nghe tôi kể lại, những người lớn tuổi cho biết đó là sự việc xảy ra cho người sắp lìa đời. Thấm nhuần triết lý của đạo Phật do ông bà nội tôi thường giảng dạy, tôi nghĩ đời sống con người có sinh thì phải có tử, đó là định luật tự nhiên của tạo hoá cho nên lúc đó lòng tôi rất bình thản, cũng may vì nửa bên người không còn cảm giác nên tôi không cảm thấy đau đớn vì vết thương.
Tôi bị đánh thức bởi một tiếng nói rất to:
_ “ Các anh đưa anh SV nầy đến bệnh viện ngay”.
Tôi vội đưa mắt nhìn về phía phát ra tiếng nói, tôi nhìn thấy một quân nhân đứng trên thiết vận xa M113, trên nón sắt của ông có 2 ngôi sao, bảng tên là Trần Văn Nhật. Sau nầy tôi mới biết là Tướng Trần văn Nhật K10 xuất thân từ trường VBQGVN, lúc đó ông là Tư Lệnh chiến trường Bình Tuy.
Người đứng đối diện với Tướng Nhật là một vị Đại Uý Quân y, ông chào đáp lễ Tướng Nhật rồi quay qua giúp anh y tá đưa tôi lên xe cứu thương, hối anh tài xế chạy lẹ lên.
Tôi chợt thấy niên trưởng K26 và Nhân còn tần ngần đứng đó, họ chưa đi mà còn ở lại với tôi cho tới khi xe cứu thương từ trong Bình Tuy đến. Xúc động biết chừng nào, có lẽ tim tôi bóp mạnh và mắt tôi mờ đi, tôi chỉ kịp nhận ra những bàn tay huynh đệ trường mẹ vẫy vẫy khi xe tải thương rồ máy, tôi muốn vẫy tay lại “vĩnh biệt” các anh nhưng đưa tay lên không được khiến tôi nấc lên mấy lần. Thấy vậy người bác sĩ ngồi bên cạnh vỗ vỗ nhẹ lên ngực tôi an ủi:
_ “Trước đây tôi có phục vụ tại Trường Võ Bị một thời gian nên tôi xem anh như người thân, anh đừng lo, tôi sẽ tận tình giúp anh”.
Đến bệnh viện, ông tìm Đại Úy Bác sĩ Trưởng ngay để chữa cho tôi. Lúc đó miệng tôi cứng lại, không nói được nhưng đầu óc vẫn còn tỉnh táo. Bác sĩ lấy tên và loại máu trên thẻ bài của tôi xong gọi 2 y tá đưa tôi vào phòng cấp cứu và chính tay ông đã giải phẫu thông phổi cho tôi. Xong phần giải phẫu và băng bó vết thương, ông nói sẽ tiếp máu cho tôi, vì tôi bị mất máu nhiều quá nhưng rất tiếc loại máu của tôi không còn, ông nói sẽ cố gắng tìm kiếm những quân nhân và thương binh nhẹ trong bệnh viện có cùng loại máu .
Nghe BS nói mà tôi lòng tôi vẫn bình thản, tôi nghĩ nếu số tôi còn sống thì ơn trên sẽ giúp cho tôi tìm được người cùng máu. Một lúc sau BS trở lại nói:
_“Mạng anh lớn lắm vì có một anh lính TQLC bị thương nhẹ có cùng loại máu với anh và chịu hiến máu cho anh, tôi cảm ơn dùm anh rồi”
Tôi đã nhận máu của một người lính mà tôi không biết mặt biết tên, ơn nghĩa nầy tôi không biết sao đền đáp chỉ biết cầu Trời Phật cho anh vạn sự an lành. Sau đó tôi đã thiếp đi, khi tôi tỉnh dậy thì trời đã tối, nhìn đồng hồ trên tường, kim chỉ 9 giờ tối, đảo mắt nhìn quanh tôi thấy thương binh nằm chật kín cả phòng, không đủ chỗ phải nằm trên băng ca.
Một đêm an bình trôi qua tại bệnh viện Bình Tuy, khỏang 10 giờ sáng, một bác sĩ đến thăm tôi và kể cho tôi biết ông tốt nghiệp trường Quân Y, mỗi năm khi đến mùa quân sự, khóa của ông phải ra Đà Lạt thụ huấn chung với khoá 19 Võ Bị do đó ông luôn nghĩ ông cũng xúất thân từ trường VB nên ông tận tình với tôi như đàn em. Tôi và ông tâm sự với nhau, một lúc sau ông nói:
_ “Tôi sẽ tìm một cô y tá có gia đình ở Saì Gòn để cho theo anh về Tổng Y Viện Cộng Hoà nội trong chiều nay, 3 giờ chiều sẽ có chuyến bay chở thương binh về bệnh viện Cộng Hoà. Tôi nghĩ Bình Tuy sẽ mất, với tình trạng vết thương quan trọng này, anh sẽ gặp nguy hiểm lắm nếu không được tiếp tục săn sóc”.
Nói xong ông cầm tay tôi thật lâu, lắc lắc như muốn nói thêm rồi ra đi. Tôi nhắm mắt ngủ một giấc cho đến khi nghe một giọng nói trong trẻo của một người con gái đánh thức tôi dậy. Trước mắt tôi là bác sĩ và một cô y tá đứng kế bên, ông giới thiệu cô tên là Hồng, cô sẽ săn sóc và theo tôi về Saì Gòn và cô sẽ ở lại Sài Gòn. À ra thế, nhất cử lưỡng tiện, chứ mạng sống của một SVSQ chưa một ngày ra trận dễ gì được ưu đãi đặc biệt như thế. Nhưng tôi vẫn thấy vui nên nói lời cám ơn vị bác sĩ và cô y tá Hồng .
Khi về đến Tổng Y viện Cộng Hoà tôi được đưa vào phòng cấp cứu để BS giải phẫu lại một lần nữa.Tôi mê man và khi tỉnh dậy thấy mình đang nằm phòng khác là phòng hồi sinh ở tầng hai, đó là ngày 5 tháng 4 năm 1975, ngày mà tôi không bao giờ quên được vì khoảng 9 giờ 30 sáng tên phản bội Nguyễn Thành Trung đã dội bom vào dinh Độc Lập.
Tôi nằm ở đây được một tuần, trong thời gian nầy tôi nhờ người báo tin cho gia đình lên thăm. Sau đó tôi được chuyển qua khu phục hồi của sĩ quan. Vì thiếu phòng nên 3 người ở chung một phòng. Trong phòng tôi gồm có một chuẩn uý Địa Phương Quân bị thương ở bụng, ruột già phải cho ra ngang hông, một thiếu uý Lôi Hổ bị đạn xuyên từ cằm lên đầu, anh nằm đây hơn 3 tháng để chờ tái giải phẩu. Lúc nào trên môi anh cũng nở nụ cười và luôn miệng hát:
_ “Trên nòng súng quê hương…tổ quốc đã nghiêng mình…”.
Đến hôm nay tôi không biết vị thiếu úy đó còn sống hay đã chết vì ngày 30 tháng 4 khi VC vào Saìgòn, chúng đã đuổi tất cả thương bệnh binh VNCH ra khỏi bệnh viện. Những ngày sau đó tình hình Sai Gòn thêm sôi động, gia đình tôi ở Sai Gòn đã đưa tôi về nhà, mời y tá đến săn sóc vết thương cho tôi…
Tôi chỉ là một người lính chưa ra trận mà đã bị trọng thương và đã may mắn được mọi người thương, cứu tôi khỏi bàn tay của tử thần trong khi những quân nhân chiến đấu thực sự trên chiến trường thì không được may mắn như tôi, biết bao các anh đã nằm xuống bên vệ đường, trong rừng sâu, trên đồi cao để đồng bào được bình an. Đã ba mươi mấy năm qua, vết thương trên da thịt tôi đã lành nhưng vết thương lòng vẫn còn đang rỉ máu. Tôi không bao giờ quên được ngày 30 tháng 4, lúc 9 giờ sáng, tôi chết lặng người khi nghe trên đài phát thanh tiếng của Tổng Thống Dương Văn Minh ra lệnh cho quân nhân các cấp buông súng đầu hàng!!! Gần đến ngày đau buồn của đất nước, tôi xin chia sẻ niềm đau cùng những người trai trẻ như tôi với bầu nhiệt huyết và mộng tang bồng hồ thỉ mang hoài bão lấp biển vá trời phải đành gián đọan nửa đường với lòng uất hận…
Tôi viết lên những dòng chữ nầy để gởi lời tri ân đến các niên trưởng, bác sĩ, y tá, bạn cùng khóa, những quân nhân các đơn vị bạn đã giúp đở, cứu mạng sống của tôi. Những tấm chân tình đó đã nói lên tình tự Võ Bị của các cưụ SVSQ cũng như những người đã từng một thời đến với Trường Mẹ, của những người cùng chung chiến tuyến. Tôi rất hãnh diện là một cưụ SVSQ của Trường VBQGVN, là một người lính của QLVNCH, hiện tại cũng như mãi mãi về sau…
Cưụ SVSQ Phan Văn Lộc K30
Vài Hình Ảnh Đà Lạt Xưa
Nam Cali Tưởng Niệm Quốc Hận 30 Tháng 4 lần thứ 39
(VienDongDaily.Com - 26/04/2014) Thanh Phong/Viễn Đông
Nghi thức rước Quốc Kỳ tại lễ Tưởng Niệm chiều thứ Bảy tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ. Nhiều vị dân cử kể cả các thị trưởng, nghị viên từ bốn thành phố và một nghị sĩ tiểu bang cùng đại diện các hội đoàn lên đặt vòng hoa. Năm nay số vòng hoa lên đến con số 33, nhiều vòng hoa nhất và đông người tham dự nhất trong nhiều năm qua.
WESTMINSTER - Ba mươi chín năm trôi qua, người Việt Nam tỵ nạn vẫn không quên ngày Quốc Hận 30 tháng Tư năm 1975, ngày đau thương nhất của dân tộc nói chung và của miền Nam Việt Nam nói riêng, và với nỗi đau mất nước đó, mỗi năm hàng ngàn đồng hương tỵ nạn khắp nơi lại tổ chức Tưởng Niệm để tri ân Quân, Dân, Cán, Chính VNCH đã hy sinh cho tổ quốc, cũng như hàng trăm ngàn đồng bào bỏ mình trên đường tìm tự do, đồng thời nhắc nhở nhau, quê hương vẫn còn đang bị cai trị bởi bạo quyền Việt cộng, hơn 80 triệu đồng bào trong nước còn đang sống không có tự do, mất cả quyền làm người, phải làm sao cứu đất nước khỏi họa xâm lăng, làm sao cứu đồng bào khỏi cảnh bị bóc lột, đàn áp, làm sao để người dân thật sự có tự do, dân chủ và nhân quyền.
Buổi Tưởng Niệm Quốc Hận năm 2014 do Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Nam Cali phối hợp với Liên Hội Cựu Chiến Sĩ và các hội đoàn tổ chức, diễn ra vào buổi chiều thứ Bảy, ngày 26 tháng Tư, 2014 tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ, 14180 All American Way, Westminster, CA 92683.
Trước Tượng Đài, các cựu quân nhân thuộc Hải, Lục, Không Quân, Cảnh Sát Quốc Gia và Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn với quân phục, cảnh phục chỉnh tề đứng sắp hàng đôi từ ngoài đường All American Way vào tận lễ đài để chào đón Quốc Kỳ Việt – Mỹ.
Hai bên lễ đài, hàng trăm chiếc ghế màu trắng dành cho quan khách và đồng hương. Chúng tôi nhận thấy có NS Lou Correa, các Thị Trưởng Westminster, Fountain Valley, Irvine và một số nghị viên Westminster, Garden Grove, đông đảo cựu quân nhân VNCH và một số cựu chiến binh Hoa Kỳ, các vị dân cử cấp tiểu bang và địa phương, và đại diện nhiều hội đoàn, đoàn thể trong Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Nam California, tất cả khoảng hai ngàn đồng hương hiện diện. Ngoài các phóng viên Việt Nam, một số cơ quan truyền thông Hoa Kỳ cũng cử phóng viên đến theo dõi và tường trình buổi Tưởng Niệm.
Đúng 6 giờ chiều, buổi lễ bắt đầu với nghi thức rước Quốc Kỳ VNCH và Hoa Kỳ lên trước lễ đài làm lễ chào cờ và mặc niệm. Hội cựu nữ sinh các trường Lê Văn Duyệt, Trưng Vương, Gia Long, Hội Quảng Nam Đà Nẵng, Câu Lạc Bộ Hùng Sử Việt, Ban Tù Ca Xuân Điềm và Câu Lạc Bộ Tình Nghệ Sĩ phụ trách hát quốc ca. Nghi thức chào cờ do mũ đỏ Nguyễn Văn Hùng phụ trách. Sau đó MC Minh Phượng, Diệp Miên trường và Phát Bùi phụ trách chương trình tiếp theo.
Ttrước bàn thờ tổ quốc có di ảnh của các vị Tướng lãnh tuẫn tiết, Ban Tế Lễ với áo thụng xanh đã lên làm nghi thức tế lễ cổ truyền rất trang nghiêm, cảm động. Tiếp đến là diễn văn của Trưởng Ban Tổ Chức và phát biểu của một số dân cử, và đại diện các hội đoàn lên đặt vòng hoa. Năm nay số vòng hoa lên đến con số 33, nhiều vòng hoa nhất và đông người tham dự nhất từ nhiều năm qua.
Trong dịp này, Viễn Đông đã phỏng vấn một số đồng hương có mặt và ghi nhận ý kiến mỗi người như sau:
Ô. Phan Kỳ Nhơn (Liên Uỷ Ban Chống Cộng Sản và Tay Sai): “Năm nay là năm thứ 39, Cộng đồng chúng ta tổ chức buổi Tưởng Niệm các chiến sĩ QL/VNCH và đồng bào đã hy sinh vì lý tưởng tự do. Năm nào chúng ta cũng phải làm để tri ân chiến sĩ và nhắc nhở nhau bổn phận phải đấu tranh cho đến khi đạp đổ được bạo quyền cộng sản, đem tự do, dân chủ và nhân quyền cho hơn 80 triệu đồng bào trong nước.”
Ô. Nguyễn Văn Cừ (Chủ Tịch Ủy Ban Giám Sát CĐ Los Angeles): “Tuy đất nước chúng ta tạm rơi vào tay Việt cộng nhưng tôi tin rằng một ngày gần đây, có thể là năm 2015, chế độ cộng sản tại Việt Nam sẽ bị cáo chung như ở Ba Lan, ở Đông Âu và ở Liên Bang Xô Viết để chúng ta trở về quê hương trong vinh quang.”
Cô Trần Mỹ Anh Thư (sinh viên UCI): “Chúng cháu rất ngưỡng mộ các người lính của VNCH, chúng cháu đọc thấy các trang sử rất oai hùng của họ, nhất là các ông tướng đã tuẫn tiết, không để rơi vào tay Việt cộng, Thật đáng ca ngợi.”
Anh Nguyễn Hoàng Cảnh (sinh viên Cal State Long Beach): “Năm nào giới trẻ chúng cháu cũng tham dự buổi Tưởng Niệm này, vì đất nước là đất nước chung, tổ quốc Việt Nam là tổ quốc chung của chúng ta, nay bị người cộng sản chiếm và cai trị. Nếu họ cai trị dân chủ, người dân có quyền tự do và họ tôn trọng mọi người thì chắc không ai chống, nhưng bây giờ họ ác quá. Các bác tổ chức Tưởng Niệm thế này là rất tốt để cho chúng cháu học hỏi.”
Bà Đoàn Mai Trang (cư dân Westminster): “Năm nào tôi cũng có mặt tham dự. Gia đình tôi có hai người lính hy sinh, ông xã tôi phải vào tù gần 10 năm sau ngày 30-4-1975, gia đình tan nát, chia ly chỉ vì bọn Việt cộng từ miền Bắc tràn xuống phá tan sự an vui của đồng bào chúng ta ở miền Nam. Vì vậy tôi căm hận Việt cộng đến muôn đời, và càng căm hận chúng, tôi càng tưởng nhớ, tri ân các chiến sĩ Quân Lực của mình.”
Cháu Võ Ngô Minh Thông (Cao Đài): “Con biết hôm nay là ngày Việt cộng cướp nước mình, con căm giận Việt cộng lắm. Nên con đi ra đây dự lễ tưởng niệm các anh lính của mình đã hy sinh cho tổ quốc.”
Sau tất cả các nghi thức, mọi người lần lượt lên niệm hương trước bàn thờ, và theo dõi chương trình văn nghệ đấu tranh do nhiều tổ chức, hội đoàn, Câu Lạc Bộ Tình Nghệ Sĩ, Câu Lạc Bộ Hùng Sử Việt, Ban Tù Ca Xuân Điềm và một số hội đồng hương trình diễn.
Ngoài ra, một buổi Tưởng Niệm Tháng Tư Đen khác sẽ được tổ chức vào lúc 12 giờ trưa thứ Tư 30 tháng Tư, 2014 tại trước Thương xá Phước Lộc Thọ.
Cũng tại Tượng Đài, một buổi lễ Tưởng Niệm 39 năm mất nước và 11 năm xây dựng Tượng Đài sẽ được tổ chức lúc 10 giờ 30 ngày Chủ Nhật 27 Tháng Tư, 2014.
Một buổi Tưởng Niệm Thuyền Nhân tổ chức tại Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân trong khuôn viên nghĩa trang Westminster lúc 3 giờ chiều Chủ Nhật 27 tháng Tư, 2014.
(VienDongDaily.Com - 26/04/2014) Thanh Phong/Viễn Đông
Nghi thức rước Quốc Kỳ tại lễ Tưởng Niệm chiều thứ Bảy tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ. Nhiều vị dân cử kể cả các thị trưởng, nghị viên từ bốn thành phố và một nghị sĩ tiểu bang cùng đại diện các hội đoàn lên đặt vòng hoa. Năm nay số vòng hoa lên đến con số 33, nhiều vòng hoa nhất và đông người tham dự nhất trong nhiều năm qua.
WESTMINSTER - Ba mươi chín năm trôi qua, người Việt Nam tỵ nạn vẫn không quên ngày Quốc Hận 30 tháng Tư năm 1975, ngày đau thương nhất của dân tộc nói chung và của miền Nam Việt Nam nói riêng, và với nỗi đau mất nước đó, mỗi năm hàng ngàn đồng hương tỵ nạn khắp nơi lại tổ chức Tưởng Niệm để tri ân Quân, Dân, Cán, Chính VNCH đã hy sinh cho tổ quốc, cũng như hàng trăm ngàn đồng bào bỏ mình trên đường tìm tự do, đồng thời nhắc nhở nhau, quê hương vẫn còn đang bị cai trị bởi bạo quyền Việt cộng, hơn 80 triệu đồng bào trong nước còn đang sống không có tự do, mất cả quyền làm người, phải làm sao cứu đất nước khỏi họa xâm lăng, làm sao cứu đồng bào khỏi cảnh bị bóc lột, đàn áp, làm sao để người dân thật sự có tự do, dân chủ và nhân quyền.
Buổi Tưởng Niệm Quốc Hận năm 2014 do Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Nam Cali phối hợp với Liên Hội Cựu Chiến Sĩ và các hội đoàn tổ chức, diễn ra vào buổi chiều thứ Bảy, ngày 26 tháng Tư, 2014 tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ, 14180 All American Way, Westminster, CA 92683.
Trước Tượng Đài, các cựu quân nhân thuộc Hải, Lục, Không Quân, Cảnh Sát Quốc Gia và Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn với quân phục, cảnh phục chỉnh tề đứng sắp hàng đôi từ ngoài đường All American Way vào tận lễ đài để chào đón Quốc Kỳ Việt – Mỹ.
Hai bên lễ đài, hàng trăm chiếc ghế màu trắng dành cho quan khách và đồng hương. Chúng tôi nhận thấy có NS Lou Correa, các Thị Trưởng Westminster, Fountain Valley, Irvine và một số nghị viên Westminster, Garden Grove, đông đảo cựu quân nhân VNCH và một số cựu chiến binh Hoa Kỳ, các vị dân cử cấp tiểu bang và địa phương, và đại diện nhiều hội đoàn, đoàn thể trong Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Nam California, tất cả khoảng hai ngàn đồng hương hiện diện. Ngoài các phóng viên Việt Nam, một số cơ quan truyền thông Hoa Kỳ cũng cử phóng viên đến theo dõi và tường trình buổi Tưởng Niệm.
Đúng 6 giờ chiều, buổi lễ bắt đầu với nghi thức rước Quốc Kỳ VNCH và Hoa Kỳ lên trước lễ đài làm lễ chào cờ và mặc niệm. Hội cựu nữ sinh các trường Lê Văn Duyệt, Trưng Vương, Gia Long, Hội Quảng Nam Đà Nẵng, Câu Lạc Bộ Hùng Sử Việt, Ban Tù Ca Xuân Điềm và Câu Lạc Bộ Tình Nghệ Sĩ phụ trách hát quốc ca. Nghi thức chào cờ do mũ đỏ Nguyễn Văn Hùng phụ trách. Sau đó MC Minh Phượng, Diệp Miên trường và Phát Bùi phụ trách chương trình tiếp theo.
Ttrước bàn thờ tổ quốc có di ảnh của các vị Tướng lãnh tuẫn tiết, Ban Tế Lễ với áo thụng xanh đã lên làm nghi thức tế lễ cổ truyền rất trang nghiêm, cảm động. Tiếp đến là diễn văn của Trưởng Ban Tổ Chức và phát biểu của một số dân cử, và đại diện các hội đoàn lên đặt vòng hoa. Năm nay số vòng hoa lên đến con số 33, nhiều vòng hoa nhất và đông người tham dự nhất từ nhiều năm qua.
Trong dịp này, Viễn Đông đã phỏng vấn một số đồng hương có mặt và ghi nhận ý kiến mỗi người như sau:
Ô. Phan Kỳ Nhơn (Liên Uỷ Ban Chống Cộng Sản và Tay Sai): “Năm nay là năm thứ 39, Cộng đồng chúng ta tổ chức buổi Tưởng Niệm các chiến sĩ QL/VNCH và đồng bào đã hy sinh vì lý tưởng tự do. Năm nào chúng ta cũng phải làm để tri ân chiến sĩ và nhắc nhở nhau bổn phận phải đấu tranh cho đến khi đạp đổ được bạo quyền cộng sản, đem tự do, dân chủ và nhân quyền cho hơn 80 triệu đồng bào trong nước.”
Ô. Nguyễn Văn Cừ (Chủ Tịch Ủy Ban Giám Sát CĐ Los Angeles): “Tuy đất nước chúng ta tạm rơi vào tay Việt cộng nhưng tôi tin rằng một ngày gần đây, có thể là năm 2015, chế độ cộng sản tại Việt Nam sẽ bị cáo chung như ở Ba Lan, ở Đông Âu và ở Liên Bang Xô Viết để chúng ta trở về quê hương trong vinh quang.”
Cô Trần Mỹ Anh Thư (sinh viên UCI): “Chúng cháu rất ngưỡng mộ các người lính của VNCH, chúng cháu đọc thấy các trang sử rất oai hùng của họ, nhất là các ông tướng đã tuẫn tiết, không để rơi vào tay Việt cộng, Thật đáng ca ngợi.”
Anh Nguyễn Hoàng Cảnh (sinh viên Cal State Long Beach): “Năm nào giới trẻ chúng cháu cũng tham dự buổi Tưởng Niệm này, vì đất nước là đất nước chung, tổ quốc Việt Nam là tổ quốc chung của chúng ta, nay bị người cộng sản chiếm và cai trị. Nếu họ cai trị dân chủ, người dân có quyền tự do và họ tôn trọng mọi người thì chắc không ai chống, nhưng bây giờ họ ác quá. Các bác tổ chức Tưởng Niệm thế này là rất tốt để cho chúng cháu học hỏi.”
Bà Đoàn Mai Trang (cư dân Westminster): “Năm nào tôi cũng có mặt tham dự. Gia đình tôi có hai người lính hy sinh, ông xã tôi phải vào tù gần 10 năm sau ngày 30-4-1975, gia đình tan nát, chia ly chỉ vì bọn Việt cộng từ miền Bắc tràn xuống phá tan sự an vui của đồng bào chúng ta ở miền Nam. Vì vậy tôi căm hận Việt cộng đến muôn đời, và càng căm hận chúng, tôi càng tưởng nhớ, tri ân các chiến sĩ Quân Lực của mình.”
Cháu Võ Ngô Minh Thông (Cao Đài): “Con biết hôm nay là ngày Việt cộng cướp nước mình, con căm giận Việt cộng lắm. Nên con đi ra đây dự lễ tưởng niệm các anh lính của mình đã hy sinh cho tổ quốc.”
Sau tất cả các nghi thức, mọi người lần lượt lên niệm hương trước bàn thờ, và theo dõi chương trình văn nghệ đấu tranh do nhiều tổ chức, hội đoàn, Câu Lạc Bộ Tình Nghệ Sĩ, Câu Lạc Bộ Hùng Sử Việt, Ban Tù Ca Xuân Điềm và một số hội đồng hương trình diễn.
Ngoài ra, một buổi Tưởng Niệm Tháng Tư Đen khác sẽ được tổ chức vào lúc 12 giờ trưa thứ Tư 30 tháng Tư, 2014 tại trước Thương xá Phước Lộc Thọ.
Cũng tại Tượng Đài, một buổi lễ Tưởng Niệm 39 năm mất nước và 11 năm xây dựng Tượng Đài sẽ được tổ chức lúc 10 giờ 30 ngày Chủ Nhật 27 Tháng Tư, 2014.
Một buổi Tưởng Niệm Thuyền Nhân tổ chức tại Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân trong khuôn viên nghĩa trang Westminster lúc 3 giờ chiều Chủ Nhật 27 tháng Tư, 2014.
Hình Ảnh Lễ Tưởng Niệm 30 Tháng 4