Ca Nhạc Sĩ Việt Dũng Đã Qua Đời
Nhạc sĩ-ca sĩ Việt Dzũng đã đột ngột qua đời ngày 20 tháng 12 năm 2013 tại Bệnh viện khu vực Fountain Valley ở thành phố Fountain Valley, Quận Cam, Miền Nam California, Hoa Kỳ do căn bệnh tim lúc 10:35 giờ sáng hưởng dương 55 tuổi.
VÔ CÙNG THƯƠNG TIẾC VIỆT DŨNG
Việt Dzũng, nhạc sĩ, nghệ sĩ, nhà báo, người hoạt động quên mình, tận tâm, không ngừng cùng đồng bào hải ngoại giương cao ngọn cờ vàng chính nghĩa chống cộng sản, tranh đấu cho quyền làm người, tình thương và công lý, chân thiện mỹ, truyền thông và nghệ thuật. Anh Việt Dzũng là con cưng của nước Việt, vừa qua đời tại nam California hôm nay Thứ Sáu ngày 20.12. 2013.
Nguyện cầu linh hồn Việt Dzũng vĩnh viễn bình an ở Nuớc Trời cùng Thiên Chúa, các Thánh, và các Anh Hùng Dân Tộc Việt Nam muôn thuở.
Nghệ sĩ Việt Dzũng
Suốt hơn ba mươi năm nay, Việt Dzũng là một cái tên quen thuộc với hầu hết mọi người Việt đang sinh sống ở hải ngoại, kể cả rất nhiều người dân trong nước cũng biết đến tên anh..Nhưng cho tới nay vẫn chưa có ai viết cho thật đầy đủ về người nghệ sĩ đa tài này và những đóng góp to lớn của anh trên nhiều lãnh vực khác nhau, nhứt là trong địa hạt ca nhạc và truyền thông đại chúng. Bên cạnh đó, anh cũng thường xuyên là đề tài cho các tờ báo trong nước tấn công từ hơn hai chục năm nay, với những lời vu cáo, mạ lỵ nhằm dìm anh xuống đáy vực sâu.
Nhưng người nghệ sĩ và chiến sĩ tranh đấu cho nhân quyền này vẫn mạnh dạn vượt qua tất cả những khổ nạn chập chùng, oan khiên chất ngất và càng ngày anh càng được nhiều người yêu mến anh thêm. Cũng chính biến cố 30 tháng tư năm 1975 cùng với sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam đã đưa Việt Dzũng rời xa quê hương mà cho đến nay chưa một lần nào anh đặt chân trở lại. Cùng với 36 người chen chúc nhau trên một chiếc tàu nhỏ bé, mong manh, Việt Dzũng và bà ngoại của anh đã vĩnh viễn rời xa gia đình và đất nước Việt nam. Sau 22 ngày trên biển khi không còn thức ăn, nước uống, cũng như phải chứng kiến biết bao nhiêu cảnh đau thương trên biển cả, tàu của họ mới cập được bến Singapore. Nhưng liền sau đó, tất cả lại bị chuyển qua một chiếc tàu khác và thẳng đường tới trại tị nạn Subic ở Phi Luật Tân.
Chính những kinh nghiệm sống trên đường vượt biển tìm tự do này đã khiến cho anh sáng tác rất thành công các ca khúc để đời sau này, mà tiêu biểu nhất vẫn là “Lời Kinh Đêm” với những câu ca: … “Thuyền trôi xa … về đâu ai biết ? Thuyền có về …ghé bến tự do ? Trời cao xanh … hay trời oan nghiệt Trời có buồn … hay trời vẫn làm ngơ ?… … Người buông xuôi về nơi đáy nước Người có mộng một nấm mồ xanh ? Biển ngây ngô hay biển man rợ Biển có buồn hay biển chỉ làm ngơ …?” Chưa đầy 17 tuổi mà đã rời xa mái ấm gia đình, bỏ lại sau lưng tất cả những người thân yêu, bè bạn, mái trường yêu dấu với những sinh hoạt vui tươi của tuổi học trò.
Chắc chắn là có những khoảnh khắc anh Nguyễn Ngọc Hùng Dũng chợt nhớ lại quãng đời niên thiếu ngập tràn kỷ niệm của mình, đã bỏ lại sau lưng tận bên kia bờ Thái Bình Dương. Từ nhỏ anh đã là một học sinh xuất sắc của trường Lasalle Taberd ở Sài Gòn, cũng như anh trai và đứa em trai kế của anh. Người chị lớn của anh thì đang du học bên Nhật Bản về ngành giáo dục. Ba của anh là bác sĩ Nguyễn Ngọc Bảy, cựu Dân Biểu của nền đệ nhị cộng hoà Việt Nam và cũng là Thiếu Tá Y sĩ trưởng Bộ Tổng Tham Mưu và Sư đoàn 5 QLVNCH. Mẹ của anh là giáo sư trường nữ trung học Gia Long ở Sài Gòn.
Việt Dzũng đã yêu thích âm nhạc từ khi còn rất trẻ và được các sư huynh ở trường Lasalle Taberd chỉ dạy rất tận tình. Trong lúc gia đình mong cho anh sau này trở thành Bác sĩ để nối nghiệp cha, thì Việt Dzũng lại đam mê ca hát, văn nghệ văn gừng. Anh thường cùng các bạn học trình diễn ca nhạc ở những buổi văn nghệ liên trường. Việt Dzũng đã từng chiếm giải nhất ở cuộc thi văn nghệ của trường Taberd và đại diện trường đi tham dự các buổi hát ủy lạo chiến sĩ VNCH, cũng như tham dự vào những đại hội nhạc trẻ khắp nơi bên cạnh những tên tuổi nổi danh thời bấy giờ như Trường Kỳ, Nam Lộc, Jo Marcel, Tùng Giang, Đức Huy, Elvis Phương.v.v..
Đó là khoảng thời gian từ năm 1971 cho tới tháng tư năm 1975. Giờ đây (tháng 6-1975), tại trại tạm cư Subic, chàng thanh niên trẻ Việt Dzũng tạm quên đi những kỷ niệm thật đẹp ở quê nhà mà bắt tay ngay vào đời sống mới. Với số vốn Anh ngữ học được ở trung học và tính tình hoạt bát, Việt Dzũng liền tham gia hoạt động trong ban tổ chức và điều hành trại, đón tiếp và giúp đở nhiều chuyến tàu tị nạn lần lượt cặp bến Subic cho đến khi trại này đóng cửa. Rời trại tị nạn này, Việt Dzũng cùng bà ngoại được đưa sang đảo Guam, rồi chuyển sang trại Ft. Chaffee ở tiểu bang Arkansas.
Trong thời gian này Việt Dzũng hoạt động không ngừng nghỉ, từ việc đón tiếp đồng bào tị nạn mới tới, sinh hoạt trong hội Hồng Thập Tự, hội USCC, cộng tác với tờ báo của trại, chương trình phát thanh của trại, làm thông dịch viên giúp đỡ rất nhiều người chung quanh. Ở lại trại gần đến ngày cuối cùng trước khi trại đóng cửa, anh được Đức cha Bernard Law, Giám Mục địa phận Springfield, Missouri, bảo trợ và gởi đến tạm trú trong một gia đình người Mỹ. Năm 1976, Việt Dzũng tiếp tục học lớp 11 ở trường trung học St. Agnes, Missouri và tự trau dồi thêm về âm nhạc theo như sở thích và đam mê từ nhỏ của anh. Tại đây, anh bắt đầu sinh hoạt ca hát với các anh chị em thuộc cộng đồng Việt Nam. Anh cũng từng xuất hiện trên đài truyền hình KOZK21 ở Springfield.
Một năm sau (1977), Việt Dzũng được đoàn tụ với gia đình ở Wood River, tiểu bang Nebraska. Năm đó anh tốt nghiệp trung học tại trường Wood River. Năm 1978, Việt Dzũng chính thức bước vào lãnh vực âm nhạc khi cùng một người bạn học chung trường tên là Vernon Larsen lập ban song ca để hát theo lối du ca (troubrador) của Mỹ, tên “Firebirds” (Chim Lửa). Đôi song ca này chuyên hát nhạc đồng quê của Hoa Kỳ (American country music). Việt Dzũng sử dụng tây ban cầm và cùng người bạn Mỹ đi trình diễn khắp nơi ở vùng Trung Mỹ, kể cả các club nhạc của dân địa phương. Nhiều người Mỹ đã tỏ ra rất ngạc nhiên khi thấy một thanh niên Á châu hát nhạc đồng quê rất thành thạo, trôi chảy nên đã dành cho anh thật nhiều thiện cảm.
Cũng năm 1978 này, Việt Dzũng đoạt giải nhất về sáng tác nhạc country music tại cuộc thi Iowa Grand Old Orphy. Thật ngạc nhiên khi anh là người Việt Nam đầu tiên, mà cũng là người Á châu đầu tiên chiếm giải nhất về bộ môn sáng tác country music với bài hát hoàn toàn bằng Anh ngữ. Ngay sau đó, một hãng dĩa về country music đã mời anh cộng tác để thực hiện một Album nhạc đồng quê, nhưng anh đã từ chối vì muốn tiếp tục học ở Đại học theo ý muốn của song thân. Cũng trong năm này, Việt Dzũng bắt đầu sáng tác nhạc Việt với bài hát đầu tiên là “ Sau Ba Năm Tỵ Nạn Tại Hoa Kỳ”, viết về thân phận người dân xa xứ với những đau đớn chia lìa. Bài hát thứ hai là “Một Chút Quà Cho Quê Hương” đã trở thành một ca khúc lẫy lừng nhất của Việt Dzũng, được mọi người yêu thích cho đến tận hôm nay.
Đó là thời gian người Việt tỵ nạn bắt đầu gửi quà về cho thân nhân ở quê nhà, chia sẻ những khổ đau chất ngất, đọa đày dưới chế độ mới như những lời ca sau đây: “Em gởi về cho anh dăm bao thuốc lá Anh đốt cuộc đời cháy mòn trên ngón tay … Gởi về cho mẹ dăm chiếc kim may Mẹ may hộ con tim gan quá đoạ đày … Gởi về cho chị hộp diêm nhóm lửa Chị đốt cuộc đời trong hoang lạnh mù sương Gởi về cho mẹ dăm gói trà xanh Mẹ pha hộ con nước mắt đã khô cằn …. Con gởi về cho cha một manh áo trắng Cha mặc một lần khi ra pháp trường phơi thây Gởi về Việt Nam nước mắt đong đầy Mơ ước một ngày quê hương sẽ thanh bình …”
Nhớ lại những ngày đầu tiên làm quen với sinh hoạt văn nghệ của người Việt tha hương, khi Việt Dzũng theo người chú họ về San Antonio, Texas thăm gia đình người bạn nhân dịp tết Nguyên Đán 1979. Tại Hội Chợ Tết nơi đây, anh đã lên sân khấu, ôm đàn guitar trình bày hai ca khúc mà anh vừa sáng tác. Hát xong, nhìn xuống khán giả thì mọi người đã đầm đìa nước mắt và túa ra ôm lấy anh khi anh rời sân khấu.
Việt Dzũng đã chinh phục bà con đồng hương nơi đây kể từ lúc này. Năm sau 1980, Việt Dũng trình diễn tại một đại nhạc hội ở Omaha, Nebraska với Sĩ Phú và Mai Lệ Huyền. Sau đó anh đã hát với Khánh Ly, Hoàng Oanh, Trung Chỉnh ở Denver, Colorado những bài hát do anh sáng tác. Ngay lúc đó, Khánh Ly đã chọn ba bài hát của anh là: “Lời Kinh Đêm, Mời Em Về, Một Chút Quà Cho Quê Hương” đem về California thâu vào băng nhạc “Một Bông Hồng Cho Người Ngã Ngựa” (nhà văn Mai Thảo viết lời giới thiệu). Ba bài hát này đã là những bài hát nằm lòng của hàng triệu người Việt nhiều năm sau đó (kể cả ở trong nước).
Năm 1980, là năm mà số người Việt bỏ nước ra đi cao nhất, Việt Dzũng đã cho ra mắt cuồn băng nhạc đầu tay “Kinh Tỵ Nạn” do Trung Tâm Nhã Nhạc tại Houston, Texas thực hiện. Ngay tuần lễ đầu băng nhạc này đã được đón nhận nhiệt liệt từ California đến tận Canada, số bán sau đó đã lên đến cả trăm ngàn ấn bản. Lúc đó, Việt Dzũng đã quyết định chính thức di chuyển qua California sinh sống và sinh hoạt văn nghệ để có thể phát triển tài năng của anh nhiều hơn. Đầu tiên, anh được nhạc sĩ Ngọc Chánh mời hát cho đại nhạc hội ở Orange County và tiếp tục lưu diễn khắp nơi.
Anh cũng đã hoàn thành cuồn băng nhạc thứ nhì tên là “Lưu Vong Khúc” vào giai đoạn này. Trước đó, vào năm 1978 anh đã gặp ca nhạc sĩ Nguyệt Ánh tại Đại Hội Thanh Niên Cách Mạng Việt tại thủ đô Washington DC và hai người liền kết nghĩa chị em. Cả hai cùng sáng tác chung một đường lối và họ đã kết hợp thành một đôi song ca trình diễn khắp nơi trên thế giới, chỉ trừ các nước cộng sản mà thôi. Tại Mỹ, họ đã lưu diễn hầu hết 50 tiểu bang, kể cả những tiểu bang có rất ít người Việt sinh sống.
Tại Á châu, họ đã hát ở Nhật hơn ba lần, hát cho các phái đoàn ngoại giao, tòa tổng lãnh sự, sứ quán Mỹ ở nhiều nước như Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân, v.v…Nhưng chuyến lưu diễn ở Âu Châu của Việt Dzũng và Nguyệt Ánh phải coi là một chuyến lưu diễn lịch sử. Đã có hàng ngàn người Việt từ khắp nơi đón xe lửa đến gần địa điểm trình diễn, cắm trại nằm chờ trước hai ba ngày khai mạc để gặp hai thần tượng của họ. Ở Úc Châu khán giả cũng nhiệt liệt đón chào Việt Dũng và Nguyệt Ánh. Họ đã đi hết những thành phố có người Việt cư trú kể cả những nơi hẻo lánh như Perth và Darwin.
Đã có nhiều bài báo và cả hai cuốn sách xuất bản ở Úc được viết ra để ca tụng cho lý tưởng đấu tranh chống cộng và ước mơ ngày về quang phục quê hương của đôi nghệ sĩ này. Ngay lúc đó, chính quyền Cộng Sản Việt Nam liền lên án Việt Dzũng và Nguyệt Ánh là hai kẻ phản động số một, tuyệt đối cấm phổ biến tất cả các nhạc phẩm của họ trong nước. Trong một phiên tòa sau đó, CSVN đã kết án tử hình khiếm diện hai nghệ sĩ này. Ngày 1 tháng Tư năm 1985, hai nghệ sĩ này đã kết hợp với những ca nhạc sĩ khác để thành lập Phong Trào Hưng Ca Việt Nam, dùng âm nhạc làm vũ khí đấu tranh chống lại kẻ thù.
Cho đến nay, Phong Trào Hưng Ca Việt Nam vẫn còn hoạt động đều đặn với những tên tuổi khác như Huỳnh Lương Thiện, Trương Sĩ Lương, Xuân Nghĩa, Tuấn Minh, Tuyết Mai, Lưu Xuân Bảo..v.v..Trong suốt thời gian hơn 25 năm này, Việt Dzũng vẫn tiếp tục có những hoạt động đều đặn, liên tục và bền bỉ để tranh đấu cho người tị nạn Việt Nam. Từ những buổi văn nghệ gây quỹ cho các con tàu với người vượt biển như Cape D’Anamur, chương trình SOS Boat People, vận động chống lại chương trình cưỡng bách hồi hương người tị nạn, tranh đấu với quốc tế tại Genève, Thụy Sĩ, tại Liên Hiệp Quốc…
Có thể nói, bất cứ nơi nào có người tị nạn Việt Nam là có bước chân Việt Dzũng mang tiếng đàn, tiếng hát của anh để binh vực cho họ, sưởi ấm tấm lòng của họ, mang niềm tin yêu và hy vọng cho họ vượt qua những khổ cực, đau buồn và mất mát trên đường vượt biên. Anh đã có mặt hầu hết các trại tị nạn ở vùng Đông Nam Á để thăm viếng, ủy lạo đồng bào, giúp đở trẻ em không thân nhân và hàng ngàn công tác xã hội khác mà không hề biết mệt.
Cũng trong năm 1985 này, Việt Dzũng đã cho ra đời một băng nhạc hoàn toàn bằng Anh ngữ “Children of the Ocean”. Đây cũng là album nhạc đầu tiên của người Việt hải ngoại bằng tiếng Anh. Các tờ báo Orange County Register, Los Angeles Times, Washington Post đều có những bài viết khen ngợi cuốn băng này. Riêng tờ Austin-American- Stateman đã gọi Việt Dzũng là “người nghệ sĩ nổi tiếng nhất của cộng đồng người Mỹ gốc Việt, và là một tấm gương sáng giá, chứng tỏ là người tỵ nạn có thể hội nhập vào đời sống mới, trong khi vẫn giữ được nguồn gốc của quê hương mình.”
Về truyền thông, Việt Dzũng đã mở ra một cánh cửa khác để cho thấy một tài năng thiên phú và đa dạng ở anh. Sau một thời gian dài làm báo, tháng 7 năm 1993 Việt Dzũng được mời làm xướng ngôn viên chính cho chương trình phát thanh tiếng Việt đầu tiên ở Nam California, phát thanh 6 tiếng đồng hồ mỗi ngày là đài Little Saigon.
Cũng cần nhắc lại là trước đó các đài phát thanh đều làm chương trình theo kiểu ngày xưa, nghĩa là thâu thanh trước đàng hoàng, kỹ càng từng tiết mục và tới giờ là cho phát thanh lên. Nhưng lần đầu tiên, Việt Dzũng đã tạo ra một phong cách mới: anh đưa ra những chương trình trực tiếp truyện trò cùng thính giả (talk back) trong buổi phát thanh. Nên không khí rất vui nhộn và hào hứng, náo nhiệt vô cùng. Sau này các đài phát thanh ở Mỹ và ngay cả ở bên Việt Nam cũng bắt chước theo lối này.
Kể cả các đài BBC, VOA phát thanh về Á Châu, cũng thay đổi cách làm việc như cho xướng ngôn viên được phép đùa giỡn với thính giả chớ không đọc tin một cách nghiêm trang như ngày xưa. Ngoài việc phổ biến tin tức, âm nhạc, thể thao cuối tuần, giải trí cuối tuần, tin tức Hollywood …VD còn thực hiện chương trình đặc biệt nhất là chương trình “Tâm tình với nghệ sĩ” được rất nhiều thính giả ưa thích. Chương trình này lúc đầu phát từ 11 đến 12 giờ trưa hàng ngày trên làn sóng 967 FM của đài KWIZ. Sau đó mỗi tuần phát hai ngày thứ hai và thứ tư.
Trong vòng hơn hai năm, mà Việt Dzũng đã phỏng vấn trên 350 nghệ sĩ. Từ những ca sĩ nổi tiếng như Thanh Thúy, Thanh Tuyền, Chế Linh, Lệ thu, Ý Lan, Vũ Khanh …cho đến những ca sĩ mới xuất hiện ở hải ngoại sau này như Mạnh Đình, Dạ Nhật Yến, Thanh Trúc, Phi Nhung … Những nghệ sĩ đến từ các tiểu bang xa cũng được mời phỏng vấn như Hà Thanh, Từ Công Phụng, Trường Kỳ, Châu Hà, Văn Phụng .v.v…Trong tất cả các chương trình phỏng vấn này, nóng bỏng nhất và đặc biệt nhất phải nói là chương trình phỏng vấn nữ ca sĩ Ngọc Lan. Vì từ trước tới nay, Ngọc Lan không nhận lời cho ai phỏng vấn cả (vào thời điểm đó), chỉ có một lần cô trả lời trên đài VOA; và Việt Dzũng là người duy nhất phỏng vấn được Ngọc Lan vào tháng 10 năm 1994.
Bốn năm sau( 1996), Việt Dzũng cùng các bạn đứng ra thành lập một chương trình phát thanh độc lập, đó là đài Radio Bolsa, phát thanh trên ba làn sóng khác nhau ở Nam California, Bắc California và Houston, Texas. Hiện nay (2006), Radio Bolsa đang phát sóng trên 106.3 FM, 1190 AM (Nam California) và 1430 AM (San Jose) với Việt Dzũng và Minh Phương là hai xướng ngôn viên chủ lực cùng với các xướng ngôn viên khác như Khúc Minh, Nguyễn Phú, Uyên Thy, Mai Trang…
Việt Dzũng đã tạo sự gần gũi, thân mật giữa xướng ngôn viên với thính giả từ trẻ đến già, ở nhà cũng như đang lái xe đi làm với những chương trình đa dạng và phong phú hàng ngày. Dĩ nhiên là với kỷ thuật phát thanh digital, mọi người trên khắp thế giới cũng có thể nghe được các chương trình phát thanh này trên mạng thông tin toàn cầu bất cứ lúc nào. ( http://www.radiobolsa.com/ )
Tuy công việc hàng ngày của anh thật bận rộn như vậy, nhưng ngoài thời gian làm việc ở đài phát thanh, Việt Dzũng còn chứng tỏ là anh có khả năng làm báo rất thành công. Kể từ năm 1980, anh đã cộng tác với tờ Người Việt (trang song ngữ Tuổi Trẻ). Sau đó anh về làm Tổng Thư Ký cho tờ Nhân Chứng năm 1982. Tờ Tay Phải (của Du Tử Lê) năm 1983. Về Houston làm Tổng Thư ký cho tờ Việt Nam Thương Mại năm 1988. Trở lại California làm thư ký cho tờ Sài Gòn Nhỏ một thời gian và sau đó cộng tác với tờ tuần báo Diễm từ năm 1990. Năm 1992 trở thành Thơ ký toà soạn cho tờ nguyệt san Hồn Việt cho đến bây giờ.
Việt Dzũng cũng là cộng tác viên của nhiều cơ quan truyền thông khắp nước Mỹ như tờ Phố Nhỏ (Washington DC), Thế Giới Mới (Dallas, PL), Phương Đông (Seattle, WA), Mõ Magazine (San Jose, Sacramento, San Francisco & Oakland), Làng Văn (Canada), Nhân Quyền (Úc), Tin Điển (Đức) .v.v. Hầu như lúc nào Việt Dzũng cũng có những dự tính và dự án trước mặt, nhưng không làm sao có đầy đủ thời giờ để lo cho xuể. Chỉ nói riêng về mặt sáng tác âm nhạc thì cho đến nay Việt Dzũng đã sáng tác hơn 450 bài hát về đủ mọi thể loại. Những bài hát về tỵ nạn đã được phổ biến rộng rãi trong hai tập nhạc “Kinh Tỵ Nạn (1980) và “Lưu Vong Khúc” (1982).
Những bài hát này được viết ra như một thôi thúc về những điều phải nói ra trong những năm lạc lõng của đời lưu vong nơi xứ người. Sau đó là các ca khúc đấu tranh, quang phục quê hương. Nhưng nhiều nhất vẫn là tình ca, sáng tác rất nhiều nhưng chưa phổ biến hết.
Những bản tình ca nổi tiếng của Việt Dzũng có thể kể ra như Bài Tango Cuối Cùng, Thung Lũng Chim Bay, Khóc Ru Đời Trinh Nữ, Bên Đời Hiu Quạnh, Có Những Cuộc Tình Không Là Trăm Năm, Và Em Hãy Nói Yêu Anh, Tình Như Cây Cà-Rem… Năm 1990, Việt Dzũng thành lập riêng cho mình Trung Tâm Việt Productions, chuyên sản xuất các CD nhạc với tiếng hát của anh và bằng hữu như các CD: Ru Em Sông Núi Đợi Chờ, Thánh Ca Vào Đời, Hùng Ca Quật Khởi, Quê Hương Và Em, Mình Ơi Đưa Em Về Quê Hương, Thắp Lửa Yêu Thương, Lên Đường, Bên Em Đang Có Ta, Tuổi Trẻ Về Nguồn, Hát Cho Tự Do, Thắp Lửa Tự Do, Trái Tim Ở Lại, Anh Vẫn Còn Thương, Vuốt Mặt, Bên Bờ Đại Dương …
Sau hai mươi năm hoạt động không ngừng nghỉ trên mọi lãnh vực và được nổi danh khắp nơi, được hàng triệu người ái mộ (nhứt là giới trẻ ở hải ngoại), nhưng cũng có lúc Việt Dzũng cảm thấy rất cô đơn. Anh đã từng bày tỏ cảm nghĩ của riêng anh trong một lần phỏng vấn năm 1995 với nhà báo Trường Kỳ như sau: “Nhìn vào đời sống nghệ sĩ, ai cũng cũng chỉ thấy những rực rỡ của ánh đèn sân khấu, của những tràng pháo tay và của những rộn rịp âm thanh. Đời sống của nghệ sĩ không phải chỉ có vậy. Còn có những giọt nước mắt âm thầm mỗi đêm, những đắng cay tủi nhục và những cám dỗ chập chùng đi kèm.
Cá nhân Việt Dzũng không bao giờ muốn trở thành ca sĩ. Chỉ muốn làm một nhạc sĩ ghi lại những nỗi suy tư của một đời người, và những rung động mà mình bất chợt tìm thấy. Vì thế, nên khi nghe một ca khúc, khi thưởng thức một nhạc phẩm nào, hãy nghe bằng sự rung động của chính tâm hồn mình. Bạn sẽ thấy người nhạc sĩ đó đang mang trái tim của họ trải rộng cho bạn nhìn, như một tấm tranh vẽ. Có thể bạn sẽ bắt kịp những nét chấm phá trong tranh. Có thể bạn chỉ ơ hờ lướt mắt qua rồi thôi. Nhưng dù gì đi nữa, mỗi ca khúc hay mỗi bức tranh vẫn là một hiện diện trong đời sống. Và hãy cảm ơn sự hiện diện đó, vì nếu không cuộc đời sẽ chỉ là những vô nghĩa kéo dài. (Việt Dzũng trong “Tuyển Tập Nghệ Sĩ”, 1995) Thực ra, nỗi cô đơn ấy cũng chỉ thoáng qua mà thôi. Những dự án, kế hoạch vẫn được anh theo đuổi càng lúc càng nhiều, choáng ngộp.
Việt Dzũng tâm sự là anh mong cho một ngày dài thêm 48 tiếng đồng hồ, thay vì chỉ có 24 giờ để anh có thể hoàn thành bao nhiêu công việc đang vây bủa lấy anh. Ngày tháng vẫn trôi nhanh, trôi nhanh. Những hoạt động của anh gần đây thì nhiều vô số kể. Chỉ nói riêng về sinh hoạt với Phong Trào Hưng Ca Việt Nam thôi, thì những lần công tác nổi bật nhất là: Phát động chiến dịch “Tưởng Niệm 50 năm Hiệp Định Genève (1954-2004)”, biểu tình trước trụ sở Liên Hiệp Quốc tại Genève (Thụy Sĩ) ngày 3-4-2004 Đại nhạc hội Cứu Trợ Nạn Nhân Bão Lụt Katrina tổ chức ở Houston (17.9.2005), sau chương trình “Chén Gạo Tình Thương” do Phong Trào Hưng ca phát động từ ngày 9.9.2005.
Đại nhạc hội “Đêm Tình Thương” phối hợp với cộng đồng người Việt ở Dallas Fortworth va Trung Tâm ca nhạc Asia (tháng 9-2005) Chương trình văn Nghệ gầy quỹ cứu trợ nạn nhân cơn bão Katrina tổ chức ở Wichita. Những chương trình Đại Nhạc Hội gây quỹ giúp Thương Phế Binh VNCH ở khắp nơi …. Trong những chương trình gây quỹ từ thiện và văn nghệ đấu tranh đó, Việt Dzũng đã đến với đồng hương bằng cung cách rất bình dị thân thương. Luôn luôn có những bạn trẻ vây quanh, tíu tít thăm hỏi, chụp hình chung với anh. Có những bà mẹ già vẫy tay gọi anh lại gần chỉ để được nắm tay anh, nói vài ba câu thăm hỏi với niềm rưng rưng cảm xúc.
Nhưng tài năng đặc biệt nhất và nổi bật của anh là kể từ năm 1996 khi anh cộng tác với Trung Tâm Ca Nhạc Asia để làm MC hướng dẫn các chương trình video và đại nhạc hội trực tiếp thu hình. Anh cũng cộng tác với đài truyền hình SBTN trong việc soạn và đọc tin tức hàng ngày, cùng nhiều tiết mục khác cho chương trình phát hình liên tục 24 giờ mỗi ngày. Trước đó anh cũng đã từng nhiều lần làm MC cho các buổi đại nhạc hội, các buổi biểu tình, những lần gây quỹ từ thiện …
Riêng ở các chương trình của Trung Tâm Asia thì anh đã hợp tác viết thuyết minh và giới thiệu cho các chủ đề, các tài năng mới trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Vì từ lâu nay Trung Tâm Asia là một trong hai trung tâm hàng đầu về ca nhạc ở hải ngoại được tiếng là luôn luôn có nhiều sáng kiến mới lạ và nâng đở cho những tài năng trẻ tuổi trong lãnh vực ca hát. Rất nhiều chương trình Video của Asia có các chủ đề đầy tình người, không nhằm mục đích thương mại, nhưng rất thành công như “Người Lính”, “Những Tình Khúc Thời Chinh Chiến”, “Tình Ca Anh Bằng”. Vài năm gần đây lại có những chương trình Asia video thật giá trị như “Âm Nhạc Vòng Quanh Thế Giới” (phát hành 27/2/2004), “Tiếng Hát Trái Tim” (thu hình 20/3/2004), “Mùa Hè Rực Rỡ 2005″ (thu hình 22/7/2005).
Nhưng đặc biệt nhất là video “Hành Trình Tìm Tự Do”( phát hành 24/6/2005), khán giả đã thực sự xúc động khi thấy Việt Dzũng trở lại các đảo tị nạn ở Đông Nam Á để làm phóng sự video, gợi nhớ cảnh vượt biển của những thuyền nhân tỵ nạn liều chết ra đi tìm tự do ngày xưa. Cũng chính những chương trình video này, khi được chuyển về Việt Nam cùng với các DVD khác như “Cuộc Đổi Đời Bi Thảm, Triệu Đóa Hồng Cho Người Phụ Nữ VN, Cuộc Khổ Nạn của Người VN (Dạ Lan), và gần đây là Asia 50 “Vinh Danh Nhật Trường” và Asia 51 “Nhạc Vàng, Tình Khúc Sau Cuộc Chiến” … đã khiến nhà cầm quyền Việt Nam vô cùng tức tối, khi nhìn thấy Việt Dzũng vẫn tiếp tục xuất hiện trong vai trò làm MC.
Nên vào ngày 18/9/2006 tờ báo Công An Thành Phố HCM đã bắt đầu đăng hai bài viết với đủ thứ ngôn từ hạ cấp nhằm mạ lỵ, phỉ báng và bôi nhọ cá nhân Việt Dzũng thật nặng nề. Có thể nói lần này là lần anh bị những người Cộng Sản VN “đánh” nặng nhứt từ trước đến nay. Nhưng cũng chính những bài báo này đã khiến cho mọi người càng thấy rõ bộ mặt nham hiểm, quỷ quyệt của Cộng Sản VN như thế nào và cũng làm cho nhều người thông cảm, yêu mến và chia sẻ nhưng oan khiên, thống khổ của người nghệ sĩ này nhiều hơn.
Với tất cả những mũi tên tẩm thuốc độc bắn thẳng vào anh, Việt Dzũng chỉ im lìm, không lên tiếng biện minh hay viết bài đính chính. Anh vẫn âm thầm tiếp tục thực hiện những dự án và càng hăng say hoạt động, cống hiến tài năng của mình cho đồng hương như anh đã làm suốt hơn ba mươi năm nay. Lúc nào cũng vậy, anh vẫn luôn luôn là một đứa con cưng của tổ quốc và quê hương Việt Nam. Anh vẫn tiếp tục con đường tranh đấu cho nhân quyền và quang phục quê hương trong niềm tin rằng chế độ Cộng sản sẽ cáo chung trong một tương lai rất gần.
Duy-Khiêm Vũ Xuân Tráng
VÔ CÙNG THƯƠNG TIẾC VIỆT DŨNG
Việt Dzũng, nhạc sĩ, nghệ sĩ, nhà báo, người hoạt động quên mình, tận tâm, không ngừng cùng đồng bào hải ngoại giương cao ngọn cờ vàng chính nghĩa chống cộng sản, tranh đấu cho quyền làm người, tình thương và công lý, chân thiện mỹ, truyền thông và nghệ thuật. Anh Việt Dzũng là con cưng của nước Việt, vừa qua đời tại nam California hôm nay Thứ Sáu ngày 20.12. 2013.
Nguyện cầu linh hồn Việt Dzũng vĩnh viễn bình an ở Nuớc Trời cùng Thiên Chúa, các Thánh, và các Anh Hùng Dân Tộc Việt Nam muôn thuở.
Nghệ sĩ Việt Dzũng
Suốt hơn ba mươi năm nay, Việt Dzũng là một cái tên quen thuộc với hầu hết mọi người Việt đang sinh sống ở hải ngoại, kể cả rất nhiều người dân trong nước cũng biết đến tên anh..Nhưng cho tới nay vẫn chưa có ai viết cho thật đầy đủ về người nghệ sĩ đa tài này và những đóng góp to lớn của anh trên nhiều lãnh vực khác nhau, nhứt là trong địa hạt ca nhạc và truyền thông đại chúng. Bên cạnh đó, anh cũng thường xuyên là đề tài cho các tờ báo trong nước tấn công từ hơn hai chục năm nay, với những lời vu cáo, mạ lỵ nhằm dìm anh xuống đáy vực sâu.
Nhưng người nghệ sĩ và chiến sĩ tranh đấu cho nhân quyền này vẫn mạnh dạn vượt qua tất cả những khổ nạn chập chùng, oan khiên chất ngất và càng ngày anh càng được nhiều người yêu mến anh thêm. Cũng chính biến cố 30 tháng tư năm 1975 cùng với sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam đã đưa Việt Dzũng rời xa quê hương mà cho đến nay chưa một lần nào anh đặt chân trở lại. Cùng với 36 người chen chúc nhau trên một chiếc tàu nhỏ bé, mong manh, Việt Dzũng và bà ngoại của anh đã vĩnh viễn rời xa gia đình và đất nước Việt nam. Sau 22 ngày trên biển khi không còn thức ăn, nước uống, cũng như phải chứng kiến biết bao nhiêu cảnh đau thương trên biển cả, tàu của họ mới cập được bến Singapore. Nhưng liền sau đó, tất cả lại bị chuyển qua một chiếc tàu khác và thẳng đường tới trại tị nạn Subic ở Phi Luật Tân.
Chính những kinh nghiệm sống trên đường vượt biển tìm tự do này đã khiến cho anh sáng tác rất thành công các ca khúc để đời sau này, mà tiêu biểu nhất vẫn là “Lời Kinh Đêm” với những câu ca: … “Thuyền trôi xa … về đâu ai biết ? Thuyền có về …ghé bến tự do ? Trời cao xanh … hay trời oan nghiệt Trời có buồn … hay trời vẫn làm ngơ ?… … Người buông xuôi về nơi đáy nước Người có mộng một nấm mồ xanh ? Biển ngây ngô hay biển man rợ Biển có buồn hay biển chỉ làm ngơ …?” Chưa đầy 17 tuổi mà đã rời xa mái ấm gia đình, bỏ lại sau lưng tất cả những người thân yêu, bè bạn, mái trường yêu dấu với những sinh hoạt vui tươi của tuổi học trò.
Chắc chắn là có những khoảnh khắc anh Nguyễn Ngọc Hùng Dũng chợt nhớ lại quãng đời niên thiếu ngập tràn kỷ niệm của mình, đã bỏ lại sau lưng tận bên kia bờ Thái Bình Dương. Từ nhỏ anh đã là một học sinh xuất sắc của trường Lasalle Taberd ở Sài Gòn, cũng như anh trai và đứa em trai kế của anh. Người chị lớn của anh thì đang du học bên Nhật Bản về ngành giáo dục. Ba của anh là bác sĩ Nguyễn Ngọc Bảy, cựu Dân Biểu của nền đệ nhị cộng hoà Việt Nam và cũng là Thiếu Tá Y sĩ trưởng Bộ Tổng Tham Mưu và Sư đoàn 5 QLVNCH. Mẹ của anh là giáo sư trường nữ trung học Gia Long ở Sài Gòn.
Việt Dzũng đã yêu thích âm nhạc từ khi còn rất trẻ và được các sư huynh ở trường Lasalle Taberd chỉ dạy rất tận tình. Trong lúc gia đình mong cho anh sau này trở thành Bác sĩ để nối nghiệp cha, thì Việt Dzũng lại đam mê ca hát, văn nghệ văn gừng. Anh thường cùng các bạn học trình diễn ca nhạc ở những buổi văn nghệ liên trường. Việt Dzũng đã từng chiếm giải nhất ở cuộc thi văn nghệ của trường Taberd và đại diện trường đi tham dự các buổi hát ủy lạo chiến sĩ VNCH, cũng như tham dự vào những đại hội nhạc trẻ khắp nơi bên cạnh những tên tuổi nổi danh thời bấy giờ như Trường Kỳ, Nam Lộc, Jo Marcel, Tùng Giang, Đức Huy, Elvis Phương.v.v..
Đó là khoảng thời gian từ năm 1971 cho tới tháng tư năm 1975. Giờ đây (tháng 6-1975), tại trại tạm cư Subic, chàng thanh niên trẻ Việt Dzũng tạm quên đi những kỷ niệm thật đẹp ở quê nhà mà bắt tay ngay vào đời sống mới. Với số vốn Anh ngữ học được ở trung học và tính tình hoạt bát, Việt Dzũng liền tham gia hoạt động trong ban tổ chức và điều hành trại, đón tiếp và giúp đở nhiều chuyến tàu tị nạn lần lượt cặp bến Subic cho đến khi trại này đóng cửa. Rời trại tị nạn này, Việt Dzũng cùng bà ngoại được đưa sang đảo Guam, rồi chuyển sang trại Ft. Chaffee ở tiểu bang Arkansas.
Trong thời gian này Việt Dzũng hoạt động không ngừng nghỉ, từ việc đón tiếp đồng bào tị nạn mới tới, sinh hoạt trong hội Hồng Thập Tự, hội USCC, cộng tác với tờ báo của trại, chương trình phát thanh của trại, làm thông dịch viên giúp đỡ rất nhiều người chung quanh. Ở lại trại gần đến ngày cuối cùng trước khi trại đóng cửa, anh được Đức cha Bernard Law, Giám Mục địa phận Springfield, Missouri, bảo trợ và gởi đến tạm trú trong một gia đình người Mỹ. Năm 1976, Việt Dzũng tiếp tục học lớp 11 ở trường trung học St. Agnes, Missouri và tự trau dồi thêm về âm nhạc theo như sở thích và đam mê từ nhỏ của anh. Tại đây, anh bắt đầu sinh hoạt ca hát với các anh chị em thuộc cộng đồng Việt Nam. Anh cũng từng xuất hiện trên đài truyền hình KOZK21 ở Springfield.
Một năm sau (1977), Việt Dzũng được đoàn tụ với gia đình ở Wood River, tiểu bang Nebraska. Năm đó anh tốt nghiệp trung học tại trường Wood River. Năm 1978, Việt Dzũng chính thức bước vào lãnh vực âm nhạc khi cùng một người bạn học chung trường tên là Vernon Larsen lập ban song ca để hát theo lối du ca (troubrador) của Mỹ, tên “Firebirds” (Chim Lửa). Đôi song ca này chuyên hát nhạc đồng quê của Hoa Kỳ (American country music). Việt Dzũng sử dụng tây ban cầm và cùng người bạn Mỹ đi trình diễn khắp nơi ở vùng Trung Mỹ, kể cả các club nhạc của dân địa phương. Nhiều người Mỹ đã tỏ ra rất ngạc nhiên khi thấy một thanh niên Á châu hát nhạc đồng quê rất thành thạo, trôi chảy nên đã dành cho anh thật nhiều thiện cảm.
Cũng năm 1978 này, Việt Dzũng đoạt giải nhất về sáng tác nhạc country music tại cuộc thi Iowa Grand Old Orphy. Thật ngạc nhiên khi anh là người Việt Nam đầu tiên, mà cũng là người Á châu đầu tiên chiếm giải nhất về bộ môn sáng tác country music với bài hát hoàn toàn bằng Anh ngữ. Ngay sau đó, một hãng dĩa về country music đã mời anh cộng tác để thực hiện một Album nhạc đồng quê, nhưng anh đã từ chối vì muốn tiếp tục học ở Đại học theo ý muốn của song thân. Cũng trong năm này, Việt Dzũng bắt đầu sáng tác nhạc Việt với bài hát đầu tiên là “ Sau Ba Năm Tỵ Nạn Tại Hoa Kỳ”, viết về thân phận người dân xa xứ với những đau đớn chia lìa. Bài hát thứ hai là “Một Chút Quà Cho Quê Hương” đã trở thành một ca khúc lẫy lừng nhất của Việt Dzũng, được mọi người yêu thích cho đến tận hôm nay.
Đó là thời gian người Việt tỵ nạn bắt đầu gửi quà về cho thân nhân ở quê nhà, chia sẻ những khổ đau chất ngất, đọa đày dưới chế độ mới như những lời ca sau đây: “Em gởi về cho anh dăm bao thuốc lá Anh đốt cuộc đời cháy mòn trên ngón tay … Gởi về cho mẹ dăm chiếc kim may Mẹ may hộ con tim gan quá đoạ đày … Gởi về cho chị hộp diêm nhóm lửa Chị đốt cuộc đời trong hoang lạnh mù sương Gởi về cho mẹ dăm gói trà xanh Mẹ pha hộ con nước mắt đã khô cằn …. Con gởi về cho cha một manh áo trắng Cha mặc một lần khi ra pháp trường phơi thây Gởi về Việt Nam nước mắt đong đầy Mơ ước một ngày quê hương sẽ thanh bình …”
Nhớ lại những ngày đầu tiên làm quen với sinh hoạt văn nghệ của người Việt tha hương, khi Việt Dzũng theo người chú họ về San Antonio, Texas thăm gia đình người bạn nhân dịp tết Nguyên Đán 1979. Tại Hội Chợ Tết nơi đây, anh đã lên sân khấu, ôm đàn guitar trình bày hai ca khúc mà anh vừa sáng tác. Hát xong, nhìn xuống khán giả thì mọi người đã đầm đìa nước mắt và túa ra ôm lấy anh khi anh rời sân khấu.
Việt Dzũng đã chinh phục bà con đồng hương nơi đây kể từ lúc này. Năm sau 1980, Việt Dũng trình diễn tại một đại nhạc hội ở Omaha, Nebraska với Sĩ Phú và Mai Lệ Huyền. Sau đó anh đã hát với Khánh Ly, Hoàng Oanh, Trung Chỉnh ở Denver, Colorado những bài hát do anh sáng tác. Ngay lúc đó, Khánh Ly đã chọn ba bài hát của anh là: “Lời Kinh Đêm, Mời Em Về, Một Chút Quà Cho Quê Hương” đem về California thâu vào băng nhạc “Một Bông Hồng Cho Người Ngã Ngựa” (nhà văn Mai Thảo viết lời giới thiệu). Ba bài hát này đã là những bài hát nằm lòng của hàng triệu người Việt nhiều năm sau đó (kể cả ở trong nước).
Năm 1980, là năm mà số người Việt bỏ nước ra đi cao nhất, Việt Dzũng đã cho ra mắt cuồn băng nhạc đầu tay “Kinh Tỵ Nạn” do Trung Tâm Nhã Nhạc tại Houston, Texas thực hiện. Ngay tuần lễ đầu băng nhạc này đã được đón nhận nhiệt liệt từ California đến tận Canada, số bán sau đó đã lên đến cả trăm ngàn ấn bản. Lúc đó, Việt Dzũng đã quyết định chính thức di chuyển qua California sinh sống và sinh hoạt văn nghệ để có thể phát triển tài năng của anh nhiều hơn. Đầu tiên, anh được nhạc sĩ Ngọc Chánh mời hát cho đại nhạc hội ở Orange County và tiếp tục lưu diễn khắp nơi.
Anh cũng đã hoàn thành cuồn băng nhạc thứ nhì tên là “Lưu Vong Khúc” vào giai đoạn này. Trước đó, vào năm 1978 anh đã gặp ca nhạc sĩ Nguyệt Ánh tại Đại Hội Thanh Niên Cách Mạng Việt tại thủ đô Washington DC và hai người liền kết nghĩa chị em. Cả hai cùng sáng tác chung một đường lối và họ đã kết hợp thành một đôi song ca trình diễn khắp nơi trên thế giới, chỉ trừ các nước cộng sản mà thôi. Tại Mỹ, họ đã lưu diễn hầu hết 50 tiểu bang, kể cả những tiểu bang có rất ít người Việt sinh sống.
Tại Á châu, họ đã hát ở Nhật hơn ba lần, hát cho các phái đoàn ngoại giao, tòa tổng lãnh sự, sứ quán Mỹ ở nhiều nước như Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân, v.v…Nhưng chuyến lưu diễn ở Âu Châu của Việt Dzũng và Nguyệt Ánh phải coi là một chuyến lưu diễn lịch sử. Đã có hàng ngàn người Việt từ khắp nơi đón xe lửa đến gần địa điểm trình diễn, cắm trại nằm chờ trước hai ba ngày khai mạc để gặp hai thần tượng của họ. Ở Úc Châu khán giả cũng nhiệt liệt đón chào Việt Dũng và Nguyệt Ánh. Họ đã đi hết những thành phố có người Việt cư trú kể cả những nơi hẻo lánh như Perth và Darwin.
Đã có nhiều bài báo và cả hai cuốn sách xuất bản ở Úc được viết ra để ca tụng cho lý tưởng đấu tranh chống cộng và ước mơ ngày về quang phục quê hương của đôi nghệ sĩ này. Ngay lúc đó, chính quyền Cộng Sản Việt Nam liền lên án Việt Dzũng và Nguyệt Ánh là hai kẻ phản động số một, tuyệt đối cấm phổ biến tất cả các nhạc phẩm của họ trong nước. Trong một phiên tòa sau đó, CSVN đã kết án tử hình khiếm diện hai nghệ sĩ này. Ngày 1 tháng Tư năm 1985, hai nghệ sĩ này đã kết hợp với những ca nhạc sĩ khác để thành lập Phong Trào Hưng Ca Việt Nam, dùng âm nhạc làm vũ khí đấu tranh chống lại kẻ thù.
Cho đến nay, Phong Trào Hưng Ca Việt Nam vẫn còn hoạt động đều đặn với những tên tuổi khác như Huỳnh Lương Thiện, Trương Sĩ Lương, Xuân Nghĩa, Tuấn Minh, Tuyết Mai, Lưu Xuân Bảo..v.v..Trong suốt thời gian hơn 25 năm này, Việt Dzũng vẫn tiếp tục có những hoạt động đều đặn, liên tục và bền bỉ để tranh đấu cho người tị nạn Việt Nam. Từ những buổi văn nghệ gây quỹ cho các con tàu với người vượt biển như Cape D’Anamur, chương trình SOS Boat People, vận động chống lại chương trình cưỡng bách hồi hương người tị nạn, tranh đấu với quốc tế tại Genève, Thụy Sĩ, tại Liên Hiệp Quốc…
Có thể nói, bất cứ nơi nào có người tị nạn Việt Nam là có bước chân Việt Dzũng mang tiếng đàn, tiếng hát của anh để binh vực cho họ, sưởi ấm tấm lòng của họ, mang niềm tin yêu và hy vọng cho họ vượt qua những khổ cực, đau buồn và mất mát trên đường vượt biên. Anh đã có mặt hầu hết các trại tị nạn ở vùng Đông Nam Á để thăm viếng, ủy lạo đồng bào, giúp đở trẻ em không thân nhân và hàng ngàn công tác xã hội khác mà không hề biết mệt.
Cũng trong năm 1985 này, Việt Dzũng đã cho ra đời một băng nhạc hoàn toàn bằng Anh ngữ “Children of the Ocean”. Đây cũng là album nhạc đầu tiên của người Việt hải ngoại bằng tiếng Anh. Các tờ báo Orange County Register, Los Angeles Times, Washington Post đều có những bài viết khen ngợi cuốn băng này. Riêng tờ Austin-American- Stateman đã gọi Việt Dzũng là “người nghệ sĩ nổi tiếng nhất của cộng đồng người Mỹ gốc Việt, và là một tấm gương sáng giá, chứng tỏ là người tỵ nạn có thể hội nhập vào đời sống mới, trong khi vẫn giữ được nguồn gốc của quê hương mình.”
Về truyền thông, Việt Dzũng đã mở ra một cánh cửa khác để cho thấy một tài năng thiên phú và đa dạng ở anh. Sau một thời gian dài làm báo, tháng 7 năm 1993 Việt Dzũng được mời làm xướng ngôn viên chính cho chương trình phát thanh tiếng Việt đầu tiên ở Nam California, phát thanh 6 tiếng đồng hồ mỗi ngày là đài Little Saigon.
Cũng cần nhắc lại là trước đó các đài phát thanh đều làm chương trình theo kiểu ngày xưa, nghĩa là thâu thanh trước đàng hoàng, kỹ càng từng tiết mục và tới giờ là cho phát thanh lên. Nhưng lần đầu tiên, Việt Dzũng đã tạo ra một phong cách mới: anh đưa ra những chương trình trực tiếp truyện trò cùng thính giả (talk back) trong buổi phát thanh. Nên không khí rất vui nhộn và hào hứng, náo nhiệt vô cùng. Sau này các đài phát thanh ở Mỹ và ngay cả ở bên Việt Nam cũng bắt chước theo lối này.
Kể cả các đài BBC, VOA phát thanh về Á Châu, cũng thay đổi cách làm việc như cho xướng ngôn viên được phép đùa giỡn với thính giả chớ không đọc tin một cách nghiêm trang như ngày xưa. Ngoài việc phổ biến tin tức, âm nhạc, thể thao cuối tuần, giải trí cuối tuần, tin tức Hollywood …VD còn thực hiện chương trình đặc biệt nhất là chương trình “Tâm tình với nghệ sĩ” được rất nhiều thính giả ưa thích. Chương trình này lúc đầu phát từ 11 đến 12 giờ trưa hàng ngày trên làn sóng 967 FM của đài KWIZ. Sau đó mỗi tuần phát hai ngày thứ hai và thứ tư.
Trong vòng hơn hai năm, mà Việt Dzũng đã phỏng vấn trên 350 nghệ sĩ. Từ những ca sĩ nổi tiếng như Thanh Thúy, Thanh Tuyền, Chế Linh, Lệ thu, Ý Lan, Vũ Khanh …cho đến những ca sĩ mới xuất hiện ở hải ngoại sau này như Mạnh Đình, Dạ Nhật Yến, Thanh Trúc, Phi Nhung … Những nghệ sĩ đến từ các tiểu bang xa cũng được mời phỏng vấn như Hà Thanh, Từ Công Phụng, Trường Kỳ, Châu Hà, Văn Phụng .v.v…Trong tất cả các chương trình phỏng vấn này, nóng bỏng nhất và đặc biệt nhất phải nói là chương trình phỏng vấn nữ ca sĩ Ngọc Lan. Vì từ trước tới nay, Ngọc Lan không nhận lời cho ai phỏng vấn cả (vào thời điểm đó), chỉ có một lần cô trả lời trên đài VOA; và Việt Dzũng là người duy nhất phỏng vấn được Ngọc Lan vào tháng 10 năm 1994.
Bốn năm sau( 1996), Việt Dzũng cùng các bạn đứng ra thành lập một chương trình phát thanh độc lập, đó là đài Radio Bolsa, phát thanh trên ba làn sóng khác nhau ở Nam California, Bắc California và Houston, Texas. Hiện nay (2006), Radio Bolsa đang phát sóng trên 106.3 FM, 1190 AM (Nam California) và 1430 AM (San Jose) với Việt Dzũng và Minh Phương là hai xướng ngôn viên chủ lực cùng với các xướng ngôn viên khác như Khúc Minh, Nguyễn Phú, Uyên Thy, Mai Trang…
Việt Dzũng đã tạo sự gần gũi, thân mật giữa xướng ngôn viên với thính giả từ trẻ đến già, ở nhà cũng như đang lái xe đi làm với những chương trình đa dạng và phong phú hàng ngày. Dĩ nhiên là với kỷ thuật phát thanh digital, mọi người trên khắp thế giới cũng có thể nghe được các chương trình phát thanh này trên mạng thông tin toàn cầu bất cứ lúc nào. ( http://www.radiobolsa.com/ )
Tuy công việc hàng ngày của anh thật bận rộn như vậy, nhưng ngoài thời gian làm việc ở đài phát thanh, Việt Dzũng còn chứng tỏ là anh có khả năng làm báo rất thành công. Kể từ năm 1980, anh đã cộng tác với tờ Người Việt (trang song ngữ Tuổi Trẻ). Sau đó anh về làm Tổng Thư Ký cho tờ Nhân Chứng năm 1982. Tờ Tay Phải (của Du Tử Lê) năm 1983. Về Houston làm Tổng Thư ký cho tờ Việt Nam Thương Mại năm 1988. Trở lại California làm thư ký cho tờ Sài Gòn Nhỏ một thời gian và sau đó cộng tác với tờ tuần báo Diễm từ năm 1990. Năm 1992 trở thành Thơ ký toà soạn cho tờ nguyệt san Hồn Việt cho đến bây giờ.
Việt Dzũng cũng là cộng tác viên của nhiều cơ quan truyền thông khắp nước Mỹ như tờ Phố Nhỏ (Washington DC), Thế Giới Mới (Dallas, PL), Phương Đông (Seattle, WA), Mõ Magazine (San Jose, Sacramento, San Francisco & Oakland), Làng Văn (Canada), Nhân Quyền (Úc), Tin Điển (Đức) .v.v. Hầu như lúc nào Việt Dzũng cũng có những dự tính và dự án trước mặt, nhưng không làm sao có đầy đủ thời giờ để lo cho xuể. Chỉ nói riêng về mặt sáng tác âm nhạc thì cho đến nay Việt Dzũng đã sáng tác hơn 450 bài hát về đủ mọi thể loại. Những bài hát về tỵ nạn đã được phổ biến rộng rãi trong hai tập nhạc “Kinh Tỵ Nạn (1980) và “Lưu Vong Khúc” (1982).
Những bài hát này được viết ra như một thôi thúc về những điều phải nói ra trong những năm lạc lõng của đời lưu vong nơi xứ người. Sau đó là các ca khúc đấu tranh, quang phục quê hương. Nhưng nhiều nhất vẫn là tình ca, sáng tác rất nhiều nhưng chưa phổ biến hết.
Những bản tình ca nổi tiếng của Việt Dzũng có thể kể ra như Bài Tango Cuối Cùng, Thung Lũng Chim Bay, Khóc Ru Đời Trinh Nữ, Bên Đời Hiu Quạnh, Có Những Cuộc Tình Không Là Trăm Năm, Và Em Hãy Nói Yêu Anh, Tình Như Cây Cà-Rem… Năm 1990, Việt Dzũng thành lập riêng cho mình Trung Tâm Việt Productions, chuyên sản xuất các CD nhạc với tiếng hát của anh và bằng hữu như các CD: Ru Em Sông Núi Đợi Chờ, Thánh Ca Vào Đời, Hùng Ca Quật Khởi, Quê Hương Và Em, Mình Ơi Đưa Em Về Quê Hương, Thắp Lửa Yêu Thương, Lên Đường, Bên Em Đang Có Ta, Tuổi Trẻ Về Nguồn, Hát Cho Tự Do, Thắp Lửa Tự Do, Trái Tim Ở Lại, Anh Vẫn Còn Thương, Vuốt Mặt, Bên Bờ Đại Dương …
Sau hai mươi năm hoạt động không ngừng nghỉ trên mọi lãnh vực và được nổi danh khắp nơi, được hàng triệu người ái mộ (nhứt là giới trẻ ở hải ngoại), nhưng cũng có lúc Việt Dzũng cảm thấy rất cô đơn. Anh đã từng bày tỏ cảm nghĩ của riêng anh trong một lần phỏng vấn năm 1995 với nhà báo Trường Kỳ như sau: “Nhìn vào đời sống nghệ sĩ, ai cũng cũng chỉ thấy những rực rỡ của ánh đèn sân khấu, của những tràng pháo tay và của những rộn rịp âm thanh. Đời sống của nghệ sĩ không phải chỉ có vậy. Còn có những giọt nước mắt âm thầm mỗi đêm, những đắng cay tủi nhục và những cám dỗ chập chùng đi kèm.
Cá nhân Việt Dzũng không bao giờ muốn trở thành ca sĩ. Chỉ muốn làm một nhạc sĩ ghi lại những nỗi suy tư của một đời người, và những rung động mà mình bất chợt tìm thấy. Vì thế, nên khi nghe một ca khúc, khi thưởng thức một nhạc phẩm nào, hãy nghe bằng sự rung động của chính tâm hồn mình. Bạn sẽ thấy người nhạc sĩ đó đang mang trái tim của họ trải rộng cho bạn nhìn, như một tấm tranh vẽ. Có thể bạn sẽ bắt kịp những nét chấm phá trong tranh. Có thể bạn chỉ ơ hờ lướt mắt qua rồi thôi. Nhưng dù gì đi nữa, mỗi ca khúc hay mỗi bức tranh vẫn là một hiện diện trong đời sống. Và hãy cảm ơn sự hiện diện đó, vì nếu không cuộc đời sẽ chỉ là những vô nghĩa kéo dài. (Việt Dzũng trong “Tuyển Tập Nghệ Sĩ”, 1995) Thực ra, nỗi cô đơn ấy cũng chỉ thoáng qua mà thôi. Những dự án, kế hoạch vẫn được anh theo đuổi càng lúc càng nhiều, choáng ngộp.
Việt Dzũng tâm sự là anh mong cho một ngày dài thêm 48 tiếng đồng hồ, thay vì chỉ có 24 giờ để anh có thể hoàn thành bao nhiêu công việc đang vây bủa lấy anh. Ngày tháng vẫn trôi nhanh, trôi nhanh. Những hoạt động của anh gần đây thì nhiều vô số kể. Chỉ nói riêng về sinh hoạt với Phong Trào Hưng Ca Việt Nam thôi, thì những lần công tác nổi bật nhất là: Phát động chiến dịch “Tưởng Niệm 50 năm Hiệp Định Genève (1954-2004)”, biểu tình trước trụ sở Liên Hiệp Quốc tại Genève (Thụy Sĩ) ngày 3-4-2004 Đại nhạc hội Cứu Trợ Nạn Nhân Bão Lụt Katrina tổ chức ở Houston (17.9.2005), sau chương trình “Chén Gạo Tình Thương” do Phong Trào Hưng ca phát động từ ngày 9.9.2005.
Đại nhạc hội “Đêm Tình Thương” phối hợp với cộng đồng người Việt ở Dallas Fortworth va Trung Tâm ca nhạc Asia (tháng 9-2005) Chương trình văn Nghệ gầy quỹ cứu trợ nạn nhân cơn bão Katrina tổ chức ở Wichita. Những chương trình Đại Nhạc Hội gây quỹ giúp Thương Phế Binh VNCH ở khắp nơi …. Trong những chương trình gây quỹ từ thiện và văn nghệ đấu tranh đó, Việt Dzũng đã đến với đồng hương bằng cung cách rất bình dị thân thương. Luôn luôn có những bạn trẻ vây quanh, tíu tít thăm hỏi, chụp hình chung với anh. Có những bà mẹ già vẫy tay gọi anh lại gần chỉ để được nắm tay anh, nói vài ba câu thăm hỏi với niềm rưng rưng cảm xúc.
Nhưng tài năng đặc biệt nhất và nổi bật của anh là kể từ năm 1996 khi anh cộng tác với Trung Tâm Ca Nhạc Asia để làm MC hướng dẫn các chương trình video và đại nhạc hội trực tiếp thu hình. Anh cũng cộng tác với đài truyền hình SBTN trong việc soạn và đọc tin tức hàng ngày, cùng nhiều tiết mục khác cho chương trình phát hình liên tục 24 giờ mỗi ngày. Trước đó anh cũng đã từng nhiều lần làm MC cho các buổi đại nhạc hội, các buổi biểu tình, những lần gây quỹ từ thiện …
Riêng ở các chương trình của Trung Tâm Asia thì anh đã hợp tác viết thuyết minh và giới thiệu cho các chủ đề, các tài năng mới trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Vì từ lâu nay Trung Tâm Asia là một trong hai trung tâm hàng đầu về ca nhạc ở hải ngoại được tiếng là luôn luôn có nhiều sáng kiến mới lạ và nâng đở cho những tài năng trẻ tuổi trong lãnh vực ca hát. Rất nhiều chương trình Video của Asia có các chủ đề đầy tình người, không nhằm mục đích thương mại, nhưng rất thành công như “Người Lính”, “Những Tình Khúc Thời Chinh Chiến”, “Tình Ca Anh Bằng”. Vài năm gần đây lại có những chương trình Asia video thật giá trị như “Âm Nhạc Vòng Quanh Thế Giới” (phát hành 27/2/2004), “Tiếng Hát Trái Tim” (thu hình 20/3/2004), “Mùa Hè Rực Rỡ 2005″ (thu hình 22/7/2005).
Nhưng đặc biệt nhất là video “Hành Trình Tìm Tự Do”( phát hành 24/6/2005), khán giả đã thực sự xúc động khi thấy Việt Dzũng trở lại các đảo tị nạn ở Đông Nam Á để làm phóng sự video, gợi nhớ cảnh vượt biển của những thuyền nhân tỵ nạn liều chết ra đi tìm tự do ngày xưa. Cũng chính những chương trình video này, khi được chuyển về Việt Nam cùng với các DVD khác như “Cuộc Đổi Đời Bi Thảm, Triệu Đóa Hồng Cho Người Phụ Nữ VN, Cuộc Khổ Nạn của Người VN (Dạ Lan), và gần đây là Asia 50 “Vinh Danh Nhật Trường” và Asia 51 “Nhạc Vàng, Tình Khúc Sau Cuộc Chiến” … đã khiến nhà cầm quyền Việt Nam vô cùng tức tối, khi nhìn thấy Việt Dzũng vẫn tiếp tục xuất hiện trong vai trò làm MC.
Nên vào ngày 18/9/2006 tờ báo Công An Thành Phố HCM đã bắt đầu đăng hai bài viết với đủ thứ ngôn từ hạ cấp nhằm mạ lỵ, phỉ báng và bôi nhọ cá nhân Việt Dzũng thật nặng nề. Có thể nói lần này là lần anh bị những người Cộng Sản VN “đánh” nặng nhứt từ trước đến nay. Nhưng cũng chính những bài báo này đã khiến cho mọi người càng thấy rõ bộ mặt nham hiểm, quỷ quyệt của Cộng Sản VN như thế nào và cũng làm cho nhều người thông cảm, yêu mến và chia sẻ nhưng oan khiên, thống khổ của người nghệ sĩ này nhiều hơn.
Với tất cả những mũi tên tẩm thuốc độc bắn thẳng vào anh, Việt Dzũng chỉ im lìm, không lên tiếng biện minh hay viết bài đính chính. Anh vẫn âm thầm tiếp tục thực hiện những dự án và càng hăng say hoạt động, cống hiến tài năng của mình cho đồng hương như anh đã làm suốt hơn ba mươi năm nay. Lúc nào cũng vậy, anh vẫn luôn luôn là một đứa con cưng của tổ quốc và quê hương Việt Nam. Anh vẫn tiếp tục con đường tranh đấu cho nhân quyền và quang phục quê hương trong niềm tin rằng chế độ Cộng sản sẽ cáo chung trong một tương lai rất gần.
Duy-Khiêm Vũ Xuân Tráng
CẢM NGHĨ CỦA MC NHẠC SĨ NAM LỘC VỀ SỰ RA ĐI CỦA NGHỆ SĨ VIỆT DZŨNG
Kính thưa quý anh chị và các bạn.
Trước hết tôi xin thành thật cám ơn sự thăm hỏi của quý anh chị và các bạn trong những giờ phút vừa qua, và xin phép được trả lời chung qua một vài dòng tâm sự dưới đây:
Sự ra đi bất ngờ của nhạc sĩ Việt Dzũng là một mất mất rất lớn lao đối với tôi khi mà người bạn đồng hành của mình trong suốt hơn 30 năm qua trên con đường văn nghệ, vận động cho nhân quyền và tranh đấu cho tự do, dân chủ là nhạc sĩ Việt Dzũng đã không còn nữa. Tuy nhiên tôi thương anh ít hơn là thương những người quý mến anh còn ở lại trên cõi đời này, trong đó có tôi. Mặc dù đã phải ra đi ở độ tuổi còn trẻ, nhưng suốt hơn 50 năm qua, Việt Dzũng đã sống thật trọn vẹn và thật ầy đủ với những gì anh muốn làm cùng những điều anh muốn thực hiện. Sống với lý tưởng, với lương tâm và đem tâm sức cùng tài năng của mình để phục vụ cuộc đời.
Vì sức khỏe không được tốt cho nên Việt Dzũng cũng đã chuẩn bị tinh thần cho những điều bất trắc có thể xẩy ra. Và có lẽ cũng vì thế nên khi có những biến chuyển về bệnh trạng, anh đã ra đi thật nhanh chóng, thật thản nhiên, chỉ để lại bao đau đớn, xót xa cho những người thương mến anh đang còn sống. Điển hình là chưa đầy 24 tiếng đồng hồ kể từ khi tin về sự ra đi của anh được loan truyền đã gây sự xúc động và bàng hoàng cho rất nhiều người. Hầu như điện thoại, text và email của tôi đã tràn ngập lời nhắn của những người thân hoặc những người chưa bao giờ tôi quen biết. Quý vị đã gọi từ khắp mọi nơi trên thế giới kể cả từ VN với những lời chia sẻ, nhắn gửi chân thành và những giọt nước mắt thiết tha dành cho Việt Dzũng.
Một trong những điều may mắn và hân hạnh trong cuộc đời của tôi, là được đứng bên cạnh một người mà tôi luôn luôn ngưỡng mộ và quý mến từ bao năm qua cũng như được hoạt động cùng anh trong nhiều lãnh vực. Nếu không có Việt Dzũng ở bên cạnh, nếu không có Việt Dzũng cố vấn, an ủi, khuyến khích thì chắc tôi đã không hoàn thành được những gì mà mình muốn và đã thực hiện.
Việt Dzũng đã ra đi, nhưng tinh thần và lý tưởng phục vụ cho tha nhân, cho quê hương đất nước cùng dòng nhạc của anh vẫn còn tồn tại và sẽ sống mãi trong lòng những người thương mến anh. Tôi chỉ buồn một điều là từ nay sẽ không còn ai chọc phá mình trên sân khấu hay trước mặt khán thính giả nữa. Thằng em tôi nó đang ngủ thật bình yên!
Nam Lộc
December 21, 2013
Một mùa Giáng Sinh buồn!
Những giờ phút cuối của ca nhạc sĩ Việt Dzũng (SBS Úc Châu)
Lễ Tưởng Niệm Ca Nhạc Sĩ Việt Dũng tại Đài SBTN ngày 27-12-2013
Hát Cho Ngày Sài Gòn Quật Khởi—Nguyệt Ánh & Việt Dũng
Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ
Đảng Cộng sản Trung Quốc có thể còn tồn tại được bao lâu?
How long can the Communist party survive in China?
Jamil Anderlini (Financial Times) * Người dịch: Nguyễn Quốc Khải (Danlambao) -
Trong khi kinh tế phát triển chậm và sự bất mãn của giới trung lưu gia tăng, đây là vấn đề đang được hỏi không những ở nước ngoài mà ngay cả ở trong nước. Ngay tại Trường Trung Ương Đảng, có cuộc thảo luận về điều không thể nghĩ đến: sự sụp đổ của chế độ cộng sản Trung Quốc. Nép vào giữa trường gián điệp cao cấp của Trung Quốc và hoàng cung mùa hè về phía tây của Bắc Kinh là một nơi duy nhất trong nước mà người ta có thể bàn cãi công khai về cái chết của đảng Cộng Sản đang cai trị Trung Quốc mà không sợ bị trả thù. Nhưng địa chỉ nhiều bóng cây này không phải là trụ sở của một cơ quan nghiên cứu do Hoa Kỳ tài trợ hay là một tổ bí mật của những người bất đồng chính kiến. Đây là trường huấn luyện đảng của Ủy Ban Trung Ương Cộng Sản Trung Quốc, một học viện dành cho những nhà lãnh đạo chuyên quyền, “một lò luyện để nuôi dưỡng tinh thần của đảng viên” như được mô tả trong tài liệu tuyên truyền chính thức.
Jamil Anderlini (Financial Times) * Người dịch: Nguyễn Quốc Khải (Danlambao) -
Trong khi kinh tế phát triển chậm và sự bất mãn của giới trung lưu gia tăng, đây là vấn đề đang được hỏi không những ở nước ngoài mà ngay cả ở trong nước. Ngay tại Trường Trung Ương Đảng, có cuộc thảo luận về điều không thể nghĩ đến: sự sụp đổ của chế độ cộng sản Trung Quốc. Nép vào giữa trường gián điệp cao cấp của Trung Quốc và hoàng cung mùa hè về phía tây của Bắc Kinh là một nơi duy nhất trong nước mà người ta có thể bàn cãi công khai về cái chết của đảng Cộng Sản đang cai trị Trung Quốc mà không sợ bị trả thù. Nhưng địa chỉ nhiều bóng cây này không phải là trụ sở của một cơ quan nghiên cứu do Hoa Kỳ tài trợ hay là một tổ bí mật của những người bất đồng chính kiến. Đây là trường huấn luyện đảng của Ủy Ban Trung Ương Cộng Sản Trung Quốc, một học viện dành cho những nhà lãnh đạo chuyên quyền, “một lò luyện để nuôi dưỡng tinh thần của đảng viên” như được mô tả trong tài liệu tuyên truyền chính thức.
Giáo sư Lin Zhe ở phía ngoài
Trường Trung Ương Đảng.
©Eric Gregory Powell
Trường Trung Ương Đảng.
©Eric Gregory Powell
Bà Lin Zhe là giáo sư của Trường Trung Ương Đảng, một người đã nghiên cứu làm sao giải quyết nạn tham nhũng trong hàng ngũ đảng. Cũng tại cùng quán trà, bà vui vẻ tiên đoán rằng đảng sẽ đón mừng 100 năm cầm quyền vào năm 2049 và nói rằng đảng đang chuẩn bị, theo một tục ngữ của Trung Quốc, sẽ lãnh đạo “một ngàn mùa thu và một vạn thế hệ.” Nhưng cả Bà Lin lẫn Ông Chen cũng cảnh cáo rằng tính cách chính danh của đảng bị đe dọa bởi nạn tham nhũng địa phương. Nó đã lan tràn vào mọi tầng lớp trong xã hội. Bà Lin nói “Vấn đề này rất nghiêm trọng, như những nhà lãnh đạo cao cấp của Trung Quốc đã nói, nó có thể tiêu diệt đảng và quốc gia.”
Sự bền bỉ độc đoán
Trong cuốn sách xuất bản vào năm 1992, Tận Cùng của Lịch Sử và Người Cuối Cùng (The End of history and The Last Man), Francis Fukuyama lập luận rằng nền dân chủ cấp tiến tây phương là một dạng chính quyền sau cùng của loài người và mục tiêu cuối cùng của cách mạng tư tưởng. Lập luận này được hỗ trợ bởi sự bành trướng của chế độ dân chủ trong thế kỷ 20. Vào năm 1900, không một quốc gia nào trên thế giới có một chính thể cạnh tranh đa đảng và phổ thông đầu phiếu và chỉ có khoảng 12% nhân loại được sống dưới một chính thể được xem như là dân chủ theo một tổ chức Hoa Kỳ phi chính phủ Freedom House. Vào đầu thế kỷ 21, 120 nước trong số 192 quốc gia được quốc tế công nhận có chính thể dân chủ bầu phiếu với và 60% dân số thế giới sống dưới sự lãnh đạo của những nhân vật được bầu lên theo thể thức dân chủ. Ông Fukuyama, hiện nay là một nhà nghiên cứu cấp cao tại Standford University, nói rằng ông tin rằng Trung Quốc sẽ theo con đường của phần đông các quốc gia khác, qua sự cởi mở tự do dần dần để sau cùng tiến đến dân chủ. Ông nói, nhưng nếu điều này không xẩy ra, có thể dân chúng sẽ nổi dậy tương tự như Mùa Xuân Ả Rập.
Ông Fukuyama nói: “Mô hình chính trị của Trung Quốc không thể tồn tại được vì thành phần trung lưu ngày càng lớn mạnh - một thế lực thúc đẩy dân chủ ở khắp mọi nơi. Thế hệ mới tại Trung Quốc rất khác biệt với thế hệ đã rời bỏ ruộng vườn và thúc đẩy đợt công nghiệp hóa đầu tiên - họ có trình độ học vấn cao hơn nhiều, giầu hơn nhiều và nhiều đòi hỏi mới như không khí trong sạch, nước trong sạch, thực phẩm an toàn, và những vấn đề khác không thể giải quyết được chỉ bằng phát triển kinh tế nhanh chóng.”
Ước tính kích thước của thành phần trung lưu của Trung Quốc thay đổi tùy thuộc định nghĩa nhưng một điều chắc chắn là giai cấp này không hiện hữu hai chục năm về trước nay phát triển rất nhanh chóng. Theo công ty tư vấn McKinsey, từng lớp trung lưu trên cùng - phần dân số có lợi tức gia đình hàng năm trong khoảng $17,350 - $37,500 - chiếm 14% số gia đình thành thị vào năm vừa qua, nhưng sẽ gia tăng đến 54% trong chưa tới 10 năm tới.
Trung Quốc thường hay dấu những bằng chứng để làm thuyết Fukuyama mất giá trị với những nhà phê bình lập luận rằng tiến trình tái sáng tạo của đảng đáp ứng được nhiều hơn đối với nhu cầu và đòi hỏi của dân chúng so với những chế độ độc tài theo lỗi cổ. Ông David Shambaugh, giám đốc Chương Trình Chính Sách Trung Quốc tại George Washington University và một chuyên gia về hệ thống chính trị Trung Quốc, từng ủng hộ quan điểm này. Nhưng vài năm gần đây, ông đã thay đổi ý kiến và hiện nay tin rằng đảng đang ở trong tình trạng đi xuống. Sự kiện này lập lại những ngày cuối cùng của các triều đại trong lịch sử.
Dấu hiệu bao gồm lý tưởng quốc gia trỗng rỗng mà xã hội không tin tưởng nhưng giả vờ làm theo cho đúng nghi thức, tham nhũng ngày càng tồi tệ, không cung cấp cho công chúng được đầy đủ an sinh xã hội, cảm giác bất ổn và thất vọng lan tràn trong quần chúng. Những dấu hiệu khác bao gồm gia tăng bất ổn xả hội và sắc tộc, nạn bè phái, thuế quá cao với tiền thâu phần lớn chui vào túi của giới chức nhà nước, bất quân bình lợi tức ngày càng trầm trọng và không có chế độ pháp trị đáng tin cậy.
Ông Shambaugh nói rằng một dấu hiệu mạnh mẽ về sự thiếu tin tưởng vào hệ thống là số dân giàu có ưu tú có tích sản và tài sản ở ngoại quốc, chương mục ngân hàng ở nước ngoài, và cho con cái học tại các đại học tây phương.
Ông Shambaugh nói “Những cá nhân này sẵn sàng bỏ trốn khi được thông báo, ngay khi hệ thống chính trị vào giai đoạn lâm chung - nhưng họ sẽ ở lại Trung Quốc để có thể thâu tóm được những đồng nhân dân tệ cuối cùng. Hành vi phòng thân của họ nói lên rất nhiều về tình trạng ổn định mong manh của đảng Cộng Sản Trung Quốc ngày nay.”
Xác ướp trong quan tài pha lê
Sự bền bỉ độc đoán
Trong cuốn sách xuất bản vào năm 1992, Tận Cùng của Lịch Sử và Người Cuối Cùng (The End of history and The Last Man), Francis Fukuyama lập luận rằng nền dân chủ cấp tiến tây phương là một dạng chính quyền sau cùng của loài người và mục tiêu cuối cùng của cách mạng tư tưởng. Lập luận này được hỗ trợ bởi sự bành trướng của chế độ dân chủ trong thế kỷ 20. Vào năm 1900, không một quốc gia nào trên thế giới có một chính thể cạnh tranh đa đảng và phổ thông đầu phiếu và chỉ có khoảng 12% nhân loại được sống dưới một chính thể được xem như là dân chủ theo một tổ chức Hoa Kỳ phi chính phủ Freedom House. Vào đầu thế kỷ 21, 120 nước trong số 192 quốc gia được quốc tế công nhận có chính thể dân chủ bầu phiếu với và 60% dân số thế giới sống dưới sự lãnh đạo của những nhân vật được bầu lên theo thể thức dân chủ. Ông Fukuyama, hiện nay là một nhà nghiên cứu cấp cao tại Standford University, nói rằng ông tin rằng Trung Quốc sẽ theo con đường của phần đông các quốc gia khác, qua sự cởi mở tự do dần dần để sau cùng tiến đến dân chủ. Ông nói, nhưng nếu điều này không xẩy ra, có thể dân chúng sẽ nổi dậy tương tự như Mùa Xuân Ả Rập.
Ông Fukuyama nói: “Mô hình chính trị của Trung Quốc không thể tồn tại được vì thành phần trung lưu ngày càng lớn mạnh - một thế lực thúc đẩy dân chủ ở khắp mọi nơi. Thế hệ mới tại Trung Quốc rất khác biệt với thế hệ đã rời bỏ ruộng vườn và thúc đẩy đợt công nghiệp hóa đầu tiên - họ có trình độ học vấn cao hơn nhiều, giầu hơn nhiều và nhiều đòi hỏi mới như không khí trong sạch, nước trong sạch, thực phẩm an toàn, và những vấn đề khác không thể giải quyết được chỉ bằng phát triển kinh tế nhanh chóng.”
Ước tính kích thước của thành phần trung lưu của Trung Quốc thay đổi tùy thuộc định nghĩa nhưng một điều chắc chắn là giai cấp này không hiện hữu hai chục năm về trước nay phát triển rất nhanh chóng. Theo công ty tư vấn McKinsey, từng lớp trung lưu trên cùng - phần dân số có lợi tức gia đình hàng năm trong khoảng $17,350 - $37,500 - chiếm 14% số gia đình thành thị vào năm vừa qua, nhưng sẽ gia tăng đến 54% trong chưa tới 10 năm tới.
Trung Quốc thường hay dấu những bằng chứng để làm thuyết Fukuyama mất giá trị với những nhà phê bình lập luận rằng tiến trình tái sáng tạo của đảng đáp ứng được nhiều hơn đối với nhu cầu và đòi hỏi của dân chúng so với những chế độ độc tài theo lỗi cổ. Ông David Shambaugh, giám đốc Chương Trình Chính Sách Trung Quốc tại George Washington University và một chuyên gia về hệ thống chính trị Trung Quốc, từng ủng hộ quan điểm này. Nhưng vài năm gần đây, ông đã thay đổi ý kiến và hiện nay tin rằng đảng đang ở trong tình trạng đi xuống. Sự kiện này lập lại những ngày cuối cùng của các triều đại trong lịch sử.
Dấu hiệu bao gồm lý tưởng quốc gia trỗng rỗng mà xã hội không tin tưởng nhưng giả vờ làm theo cho đúng nghi thức, tham nhũng ngày càng tồi tệ, không cung cấp cho công chúng được đầy đủ an sinh xã hội, cảm giác bất ổn và thất vọng lan tràn trong quần chúng. Những dấu hiệu khác bao gồm gia tăng bất ổn xả hội và sắc tộc, nạn bè phái, thuế quá cao với tiền thâu phần lớn chui vào túi của giới chức nhà nước, bất quân bình lợi tức ngày càng trầm trọng và không có chế độ pháp trị đáng tin cậy.
Ông Shambaugh nói rằng một dấu hiệu mạnh mẽ về sự thiếu tin tưởng vào hệ thống là số dân giàu có ưu tú có tích sản và tài sản ở ngoại quốc, chương mục ngân hàng ở nước ngoài, và cho con cái học tại các đại học tây phương.
Ông Shambaugh nói “Những cá nhân này sẵn sàng bỏ trốn khi được thông báo, ngay khi hệ thống chính trị vào giai đoạn lâm chung - nhưng họ sẽ ở lại Trung Quốc để có thể thâu tóm được những đồng nhân dân tệ cuối cùng. Hành vi phòng thân của họ nói lên rất nhiều về tình trạng ổn định mong manh của đảng Cộng Sản Trung Quốc ngày nay.”
Xác ướp trong quan tài pha lê
Chân dung khổng lồ của Mao Trạch Đông được treo ở ngay trên Thiên An Môn - lối vào phía nam của Tử Cấm Thành, nhìn chằm chằm, qua quảng trường mang tên ông, vào lăng tẩm oai nghiêm nơi thể xác được ướp của ông được quấn trong một lá cờ Cộng Sản. Mỗi buổi sáng trong tuần ngoại trừ thứ Hai, du khách Trung Quốc xếp hàng dài tại quảng trường để được nhìn thấy lãnh tụ vĩ đại trong chiếc quan tài bằng pha lê.
Một thập niên trước, người ta thường được chứng kiến những xúc động bộc phát lớn lao và những người hành hương quỳ xuống trước “hoàng đế đỏ” đã quá cố của Trung Quốc. Nhưng vào một ngày trong tuần mới đây, cảm nghĩ nổi bật của những người đến xem có vẻ lãnh đạm (dửng dưng) hoặc thất vọng vừa phải. Một người ở tuổi trung niên với giọng địa phương nói rằng “Tôi xếp hàng một tiếng đồng hồ để thế này sao? Tôi tin rằng xác này làm bằng sáp; Thật là phí thời giờ.”
Sự thay đổi thái độ tinh tế này trong 10 năm qua thể hiện sự biến chuyển sâu sa hơn trong xã hội Trung Quốc tuy khó đo lường nhưng ngày càng rõ rệt. GS Perry Link tại Đại Học California ở Riverside, một trong những chuyên gia tây phương về Trung Quốc được kính trọng, nói rằng “Nền tảng tư tưởng của đảng thật rất nông cạn. Người dân gia nhập đảng ngày nay để móc nối và tiến thân không vì bất cứ một lý tưởng xã hội nào.”
Có lẽ truyền thông đại chúng qua Internet là một nhân tố quan trọng khích động sự chỉ trích chua cay và nghi ngờ giới nắm quyền lực. Chế độ kiểm duyệt Internet của Trung Quốc chặt chẽ nhất thế giới với Twitter, Facebook, Youtube và vô số mạng và dịch vụ trực tuyến bị ngăn chặn vì đảng lo sợ rằng những phương tiện này có thể được sử dụng để tổ chức đối lập chính trị. Nhưng sự bành trướng của những hệ thống thông tin tương tự trong nước, đặc biệt những mạng cực nhỏ “Weibo” giống như Twitter, vẫn cho phép dân chúng phá vỡ được sự kiểm soát của đảng đối với cuộc thảo luận công cộng theo một cách mà trước đây không thể làm được.
Trong khi kinh tế Trung Quốc phát triển chậm lại và sự tức giận tăng lên do một số vấn đề phát xuất từ sự thiếu vắng một thể chế cho phép người dân tham gia vào chính trị, đảng thật sự lo lắng về sự mất kiểm soát về tư tưởng, ý kiến, và thông điệp.
“Bẩy điều không thể nói đến”
Một thập niên trước, người ta thường được chứng kiến những xúc động bộc phát lớn lao và những người hành hương quỳ xuống trước “hoàng đế đỏ” đã quá cố của Trung Quốc. Nhưng vào một ngày trong tuần mới đây, cảm nghĩ nổi bật của những người đến xem có vẻ lãnh đạm (dửng dưng) hoặc thất vọng vừa phải. Một người ở tuổi trung niên với giọng địa phương nói rằng “Tôi xếp hàng một tiếng đồng hồ để thế này sao? Tôi tin rằng xác này làm bằng sáp; Thật là phí thời giờ.”
Sự thay đổi thái độ tinh tế này trong 10 năm qua thể hiện sự biến chuyển sâu sa hơn trong xã hội Trung Quốc tuy khó đo lường nhưng ngày càng rõ rệt. GS Perry Link tại Đại Học California ở Riverside, một trong những chuyên gia tây phương về Trung Quốc được kính trọng, nói rằng “Nền tảng tư tưởng của đảng thật rất nông cạn. Người dân gia nhập đảng ngày nay để móc nối và tiến thân không vì bất cứ một lý tưởng xã hội nào.”
Có lẽ truyền thông đại chúng qua Internet là một nhân tố quan trọng khích động sự chỉ trích chua cay và nghi ngờ giới nắm quyền lực. Chế độ kiểm duyệt Internet của Trung Quốc chặt chẽ nhất thế giới với Twitter, Facebook, Youtube và vô số mạng và dịch vụ trực tuyến bị ngăn chặn vì đảng lo sợ rằng những phương tiện này có thể được sử dụng để tổ chức đối lập chính trị. Nhưng sự bành trướng của những hệ thống thông tin tương tự trong nước, đặc biệt những mạng cực nhỏ “Weibo” giống như Twitter, vẫn cho phép dân chúng phá vỡ được sự kiểm soát của đảng đối với cuộc thảo luận công cộng theo một cách mà trước đây không thể làm được.
Trong khi kinh tế Trung Quốc phát triển chậm lại và sự tức giận tăng lên do một số vấn đề phát xuất từ sự thiếu vắng một thể chế cho phép người dân tham gia vào chính trị, đảng thật sự lo lắng về sự mất kiểm soát về tư tưởng, ý kiến, và thông điệp.
“Bẩy điều không thể nói đến”
GS Shen Zhihua -
East China Normal University
©Eric Gregory Powell
Ông Shen Zhihua là một giáo sư tại Đại Học Sư Phạm Hoa Đông, chuyên về Liên Bang Xô Viết và là con của một trong những sĩ quan trong quân Đội Giái Phóng Nhân Dân từng phục vụ sát cánh với Mao trong cuộc cách mạng. Ông bị giam tù hai năm vào đầu thập niên 1980 sau khi bị kết tội oan làm gián điệp cho CIA. Vào tháng 9, 2009, Ông Shen trong một nhóm gồm một số ít học giả được tín cậy và được cựu Chủ Tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân triệu tập để thảo luận về sự sụp đổ của Liên Bang Xô Viết. Ông Giang hỏi họ về những yếu tố rõ ràng nào đã đưa đền sự tan rã của Xô Viết và nói rằng “Gorbachev đã phản bội cuộc cách mạng.”
Theo ông Shen, quan điểm của Giang Trạch Dân cũng là niềm tin chính thống của những nhà lãnh đạo Trung Quốc kể cả Tập Cận Bình. Trong bài diễn văn dành cho đảng viên sau khi ông được chọn làm người lãnh đạo đảng và quân đội vào cuối năm vừa qua, Tập Cận Bình nói rằng đế quốc Xô Viết đổ vỡ “bởi vì không có ai đủ dung cảm để đứng lên và chống lại.”
GS Shambaugh của George Washington University nói rằng “Tôi có thể không nhấn mạnh đủ về một sự kiện là những nhà lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Trung Quốc tiếp tục sống dưới bóng Liên Xô - Họ ý thức tối đa về những cải tổ Gorbachev thực hiện và tuyệt đối không đi theo con đường này.”
Tập Cận Bình bày tỏ quyền lực phù hợp với lập trường quả quyết của ông trên võ đài quốc tế vì Trung Quốc tiếp tục bành trướng vai trò của một siêu cường thứ hai của thế giới. Nhưng trong khi chính quyền mới biểu dương sức mạnh ở nước ngoài trong những cuộc tranh chấp sôi sục về lãnh thổ với những quốc gia láng giềng về phía đông, nam, và tây, chính quyền này tỏ ra lo âu và hoang mang hơn ở trong nước.
GS Link nói “Trung Quốc có sức mạnh về quân sự, ngoại giao và kinh tế hơn so với quá khứ và có thể bảo những nước như Anh và Hoa Kỳ nhượng bộ theo cách mà trước đây không thể làm được. Nhưng với tất cả sức mạnh đối ngoại mới, chính quyền Trung Quốc xem ra yếu ớt rất nhiều ở quốc nội, lo ngại rất nhiều về vấn đề bao lâu chính quyền nay có thể kiểm soát được chiếc vạc đang sôi sục này.”
Kể từ khi nhậm chức, Tập Cận Bình thi hành một loạt những cuộc đàn áp không nương tay đối với những người bất đồng chính kiến, tự do ngôn luận, những người sắc tộc ly khai, và xã hội dân sự. Ông tuyệt đối không cho thấy một dấu hiệu nào chứng tỏ rằng ông là một người chủ trương cải tổ ngầm mà một số người đã hi vọng. “Tài Liệu Số Chín”, một giác thư bí mật được phổ biến cho cán bộ vào tháng Tư và bị tiết lộ ra ngoài qua truyền thông Trung Quốc ở hải ngoại, cho thấy giới lãnh đạo mới lo ngại như thế nào về những đe dọa nhận thấy được đối với sự cai trị của đảng. Tài liệu nói rằng “Những lực lượng thù nghịch tây phương và những kẻ chống đối ở quốc nội không ngừng xâm nhập vào lãnh vực tư tưởng. Để có thể duy trì quyền lực của đảng, cần chú ý đến những cách thức suy nghĩ, lập trường, và hành động sai lầm.”
Theo tài liệu này, đảng đang thực hiện một cuộc đấu tranh khốc liệt liên hệ đến bẩy mối đe dọa trầm trọng mà trong giới hàn lâm gọi là “bẩy điều không thể nói đến”. Đứng đầu danh sách là “nền dân chủ hiến định tây phương” và tiếp theo là những điều cấm kỵ như nhân quyền, tư pháp độc lập, báo chi độc lập và phê bình quá khứ của đảng.
GS Shen Zhihua nói “Nhiều người cực kỳ thất vọng về lời nói và hành động của Tập Cận Bình. Nhưng có một số người bênh vực ông và nói rằng một khi ông củng cố được quyền lực và ổn định được tình trạng chính trị, lúc đó ông sẽ thúc đẩy những cải tổ.” Theo lý lẽ này, những hành động độc đoán của Tập Cận Bình trong giai đoạn chập chững này có tính cách chiến thuật hơn là chiến lược, một cách để tập hợp những người trung thành trong đảng cho chương trình cải tổ khó khăn sắp đến.
Một người chủ trương cải tổ, “hoàng tử” của một cựu lãnh tụ cao cấp Trung Quốc, biết rõ Tập Cận Bình, yêu cầu không nêu tên để tránh hậu quả chính trị, nói rằng “Cách giải thích bi quan hơn và thực tế một cách ngay thật hơn là Tập Cận Bình không có một sáng kiến nào cả. Vì vậy ông chỉ trích dẫn Mao và cố gắng nắm chặt lấy quyền hành. Trong trường hợp này, Trung Quốc không có hi vọng và sau cùng sự căm phẫn trong xã hội sẽ nổ tung thành một cuộc nổi dậy của dân chúng.”
Không còn phép lạ?
Trong ba thập niên kể từ khi Đặng Tiểu Bình phát động cuộc cải tổ theo định hướng thị trường và bắt đầu mở Trung Quốc đón tiếp thế giới, kinh tế phát triển trung bình khoảng 10% mỗi năm. Thành quả ngoạn mục này đã giải thoát hàng trăm triệu người ra khỏi tình trạng nghèo đói và đã khiến cho một vài người lập luận rằng chủ nghĩa “thị trường Lenin” đã thách đố học thuyết rằng các xã hội dân chủ hóa khi trở nên giàu có hơn. Nhưng theo Phó Giáo Sư chính trị học Liu Yu của Đại Học Tsinghua tại Bắc Kinh và GS Chen Dingding của Đại Học Macau, viết trong tạp chí Washington Quarterly năm vừa qua rằng “Những người biện minh rằng Trung Quốc là một trường hợp cá biệt không chú ý tới một sự kiện là hiện nay còn quá sớm để bảo Trung Quốc chấp thuận hay không tán thành học thuyết hiện đại hóa.”
Tổng sản phẩm nội địa (gross domestic product - GDP) trung bình đầu người của Trung Quốc tính theo sức mua bình giá vào năm 2012 là $8,200, nhưng theo hai giáo sư Liu và Chen, con số này chưa đạt tới mức khiến cho các quốc gia với nền tảng văn hóa và lịch sự tương tự bắt đầu chuyển tiếp qua chế độ dân chủ. Cũng theo hai giáo sư Liu và Chen Vào năm 1988, hai nước đang dân chủ hóa Nam Hàn và Đài Loan có tổng sản phẩm nội địa trung bình đầu người theo sức mua bình giá lần lượt là $12,221 và $14,584 (theo giá đồng dollar 2010). Mức lợi tức của Liên Xô và Hung Gia Lợi vào năm 1989, khi hai nước này bắt đầu những chuyển tiếp chính trị lần lượt là $16,976 và $11,257 (theo giá đồng dollar 2010).
Những con số này cho thấy rằng việc kinh tế tiếp tục phát triển nhanh chóng sẽ làm Trung Quốc tự biến đổi chính trị chỉ trong vòng vài năm. Theo lý lẽ này, kể từ khi từ bỏ chủ nghĩa Mao, tính cách chính đáng của đảng chủ yếu dựa vào khả năng duy trì phát triển nhanh và nâng cao mức sống - nhưng đây cũng sẽ chính là lý do sau cùng làm cho đảng mất quyền kiểm soát tuyệt đối.
Ngày nay có những dấu hiệu rõ ràng cho thấy rằng mô hình kinh tế của Trung Quốc - đầu tư nhiều, định hướng xuất cảng, nhà nước chế ngự đang mất sức và sự phát triển sẽ chậm lại rõ rệt hơn là Bắc Kinh tiên đoán. GDP theo thời giá phát triển hàng năm chậm lại từ 17% trong quý thứ tư của năm 2011 xuống còn 8 % trong quý thứ hai của năm nay và mức phát triển của năm vừa qua xuống thấp nhất trong vòng 13 năm qua. Phần đông những kinh tế gia trông đợi mức phát triển sẽ còn ôn hòa hơn trong một ít năm sắp đến.
Bằng hầu hết các cách đo lường, Trung Quốc Cộng Sản là một xã hội bất quân bình nhất trên trái đất, với hầu hết sự giầu có tập trung vào trong tay một ít người ưu tú kết nối với nhau về mặt chính trị. Nếu sự giảm tốc độ hiện nay biến thành một cuộc khủng hoảng kinh tế hay gây ra nạn thất nghiệp rộng lớn, phần đông những phân tách gia tin rằng chính quyền sẽ nhanh chóng phải đương đầu với một cuộc nổi dậy của dân chúng. Ông Mao Yushi, kinh tế gia, 84 tuổi, được xem là cha đỡ đầu của nền kinh tế vĩ mô của Trung Quốc, nói rằng “Trong vòng hai thế kỷ, 30 năm vừa qua là một giai đoạn kéo dài duy nhất không có chiến tranh, nạn đói, hay hành hình hàng loạt, một giai đoạn mà đời sống của mọi người ngày càng tốt đẹp hơn. Tính cách chính đáng của chế độ chủ yếu dựa vào sự thành công của cải tổ kinh tế, nhưng vấn đề to lớn là hiện nay những kỳ vọng rất cao.”
Theo ông Shen, quan điểm của Giang Trạch Dân cũng là niềm tin chính thống của những nhà lãnh đạo Trung Quốc kể cả Tập Cận Bình. Trong bài diễn văn dành cho đảng viên sau khi ông được chọn làm người lãnh đạo đảng và quân đội vào cuối năm vừa qua, Tập Cận Bình nói rằng đế quốc Xô Viết đổ vỡ “bởi vì không có ai đủ dung cảm để đứng lên và chống lại.”
GS Shambaugh của George Washington University nói rằng “Tôi có thể không nhấn mạnh đủ về một sự kiện là những nhà lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Trung Quốc tiếp tục sống dưới bóng Liên Xô - Họ ý thức tối đa về những cải tổ Gorbachev thực hiện và tuyệt đối không đi theo con đường này.”
Tập Cận Bình bày tỏ quyền lực phù hợp với lập trường quả quyết của ông trên võ đài quốc tế vì Trung Quốc tiếp tục bành trướng vai trò của một siêu cường thứ hai của thế giới. Nhưng trong khi chính quyền mới biểu dương sức mạnh ở nước ngoài trong những cuộc tranh chấp sôi sục về lãnh thổ với những quốc gia láng giềng về phía đông, nam, và tây, chính quyền này tỏ ra lo âu và hoang mang hơn ở trong nước.
GS Link nói “Trung Quốc có sức mạnh về quân sự, ngoại giao và kinh tế hơn so với quá khứ và có thể bảo những nước như Anh và Hoa Kỳ nhượng bộ theo cách mà trước đây không thể làm được. Nhưng với tất cả sức mạnh đối ngoại mới, chính quyền Trung Quốc xem ra yếu ớt rất nhiều ở quốc nội, lo ngại rất nhiều về vấn đề bao lâu chính quyền nay có thể kiểm soát được chiếc vạc đang sôi sục này.”
Kể từ khi nhậm chức, Tập Cận Bình thi hành một loạt những cuộc đàn áp không nương tay đối với những người bất đồng chính kiến, tự do ngôn luận, những người sắc tộc ly khai, và xã hội dân sự. Ông tuyệt đối không cho thấy một dấu hiệu nào chứng tỏ rằng ông là một người chủ trương cải tổ ngầm mà một số người đã hi vọng. “Tài Liệu Số Chín”, một giác thư bí mật được phổ biến cho cán bộ vào tháng Tư và bị tiết lộ ra ngoài qua truyền thông Trung Quốc ở hải ngoại, cho thấy giới lãnh đạo mới lo ngại như thế nào về những đe dọa nhận thấy được đối với sự cai trị của đảng. Tài liệu nói rằng “Những lực lượng thù nghịch tây phương và những kẻ chống đối ở quốc nội không ngừng xâm nhập vào lãnh vực tư tưởng. Để có thể duy trì quyền lực của đảng, cần chú ý đến những cách thức suy nghĩ, lập trường, và hành động sai lầm.”
Theo tài liệu này, đảng đang thực hiện một cuộc đấu tranh khốc liệt liên hệ đến bẩy mối đe dọa trầm trọng mà trong giới hàn lâm gọi là “bẩy điều không thể nói đến”. Đứng đầu danh sách là “nền dân chủ hiến định tây phương” và tiếp theo là những điều cấm kỵ như nhân quyền, tư pháp độc lập, báo chi độc lập và phê bình quá khứ của đảng.
GS Shen Zhihua nói “Nhiều người cực kỳ thất vọng về lời nói và hành động của Tập Cận Bình. Nhưng có một số người bênh vực ông và nói rằng một khi ông củng cố được quyền lực và ổn định được tình trạng chính trị, lúc đó ông sẽ thúc đẩy những cải tổ.” Theo lý lẽ này, những hành động độc đoán của Tập Cận Bình trong giai đoạn chập chững này có tính cách chiến thuật hơn là chiến lược, một cách để tập hợp những người trung thành trong đảng cho chương trình cải tổ khó khăn sắp đến.
Một người chủ trương cải tổ, “hoàng tử” của một cựu lãnh tụ cao cấp Trung Quốc, biết rõ Tập Cận Bình, yêu cầu không nêu tên để tránh hậu quả chính trị, nói rằng “Cách giải thích bi quan hơn và thực tế một cách ngay thật hơn là Tập Cận Bình không có một sáng kiến nào cả. Vì vậy ông chỉ trích dẫn Mao và cố gắng nắm chặt lấy quyền hành. Trong trường hợp này, Trung Quốc không có hi vọng và sau cùng sự căm phẫn trong xã hội sẽ nổ tung thành một cuộc nổi dậy của dân chúng.”
Không còn phép lạ?
Trong ba thập niên kể từ khi Đặng Tiểu Bình phát động cuộc cải tổ theo định hướng thị trường và bắt đầu mở Trung Quốc đón tiếp thế giới, kinh tế phát triển trung bình khoảng 10% mỗi năm. Thành quả ngoạn mục này đã giải thoát hàng trăm triệu người ra khỏi tình trạng nghèo đói và đã khiến cho một vài người lập luận rằng chủ nghĩa “thị trường Lenin” đã thách đố học thuyết rằng các xã hội dân chủ hóa khi trở nên giàu có hơn. Nhưng theo Phó Giáo Sư chính trị học Liu Yu của Đại Học Tsinghua tại Bắc Kinh và GS Chen Dingding của Đại Học Macau, viết trong tạp chí Washington Quarterly năm vừa qua rằng “Những người biện minh rằng Trung Quốc là một trường hợp cá biệt không chú ý tới một sự kiện là hiện nay còn quá sớm để bảo Trung Quốc chấp thuận hay không tán thành học thuyết hiện đại hóa.”
Tổng sản phẩm nội địa (gross domestic product - GDP) trung bình đầu người của Trung Quốc tính theo sức mua bình giá vào năm 2012 là $8,200, nhưng theo hai giáo sư Liu và Chen, con số này chưa đạt tới mức khiến cho các quốc gia với nền tảng văn hóa và lịch sự tương tự bắt đầu chuyển tiếp qua chế độ dân chủ. Cũng theo hai giáo sư Liu và Chen Vào năm 1988, hai nước đang dân chủ hóa Nam Hàn và Đài Loan có tổng sản phẩm nội địa trung bình đầu người theo sức mua bình giá lần lượt là $12,221 và $14,584 (theo giá đồng dollar 2010). Mức lợi tức của Liên Xô và Hung Gia Lợi vào năm 1989, khi hai nước này bắt đầu những chuyển tiếp chính trị lần lượt là $16,976 và $11,257 (theo giá đồng dollar 2010).
Những con số này cho thấy rằng việc kinh tế tiếp tục phát triển nhanh chóng sẽ làm Trung Quốc tự biến đổi chính trị chỉ trong vòng vài năm. Theo lý lẽ này, kể từ khi từ bỏ chủ nghĩa Mao, tính cách chính đáng của đảng chủ yếu dựa vào khả năng duy trì phát triển nhanh và nâng cao mức sống - nhưng đây cũng sẽ chính là lý do sau cùng làm cho đảng mất quyền kiểm soát tuyệt đối.
Ngày nay có những dấu hiệu rõ ràng cho thấy rằng mô hình kinh tế của Trung Quốc - đầu tư nhiều, định hướng xuất cảng, nhà nước chế ngự đang mất sức và sự phát triển sẽ chậm lại rõ rệt hơn là Bắc Kinh tiên đoán. GDP theo thời giá phát triển hàng năm chậm lại từ 17% trong quý thứ tư của năm 2011 xuống còn 8 % trong quý thứ hai của năm nay và mức phát triển của năm vừa qua xuống thấp nhất trong vòng 13 năm qua. Phần đông những kinh tế gia trông đợi mức phát triển sẽ còn ôn hòa hơn trong một ít năm sắp đến.
Bằng hầu hết các cách đo lường, Trung Quốc Cộng Sản là một xã hội bất quân bình nhất trên trái đất, với hầu hết sự giầu có tập trung vào trong tay một ít người ưu tú kết nối với nhau về mặt chính trị. Nếu sự giảm tốc độ hiện nay biến thành một cuộc khủng hoảng kinh tế hay gây ra nạn thất nghiệp rộng lớn, phần đông những phân tách gia tin rằng chính quyền sẽ nhanh chóng phải đương đầu với một cuộc nổi dậy của dân chúng. Ông Mao Yushi, kinh tế gia, 84 tuổi, được xem là cha đỡ đầu của nền kinh tế vĩ mô của Trung Quốc, nói rằng “Trong vòng hai thế kỷ, 30 năm vừa qua là một giai đoạn kéo dài duy nhất không có chiến tranh, nạn đói, hay hành hình hàng loạt, một giai đoạn mà đời sống của mọi người ngày càng tốt đẹp hơn. Tính cách chính đáng của chế độ chủ yếu dựa vào sự thành công của cải tổ kinh tế, nhưng vấn đề to lớn là hiện nay những kỳ vọng rất cao.”
Kinh tế gia Mao Yushi
©Eric Gregory Powell
Nhà kinh tế già nua này bị thanh trừng nhiều lần trong thời đại Maoit. Ông làm lao động khổ sai trong 20 năm nhưng không liên tục tại vùng thôn quê và bị đánh đập và làm nhục. Sau việc phục hồi chính trị, ông tiếp tục sống và vào năm 1993 thành lập Viện Nghiên Cứu Kinh Tế Unirule, một trung tâm nghiên cứu độc lập, và ông tiếp tục có ảnh hưởng trong những người chủ trương cải tổ trong đảng và chính quyền.
Ông Mao tiên đoán rằng Trung Quốc sẽ phải đương đầu với cuộc khủng hoảng tài chánh không thể tránh được trong một đến ba năm tới vì nợ xấu chồng chất và tình trạng thị trường bong bóng nhà đất, nhưng ông nghĩ rằng chính sự kiện này sẽ đẩy Trung Quốc đến chế độ dân chủ. Ông Mao nói “Tôi nghĩ rằng cuộc khủng hoảng tài chánh có thể thật sự tốt cho Trung Quốc vì nó sẽ buộc chính quyền phải thực hiện những cuộc cải tổ kinh tế và chính trị. Đây sẽ là kịch bản tốt nhất nhưng kịch bản xấu nhất là một cuộc nổi dậy hung bạo, tiếp theo là một giai đoạn dài với bất ổn và kinh tế suy sụp, giống như tình trạng chúng ta thấy tại Ai Cập.”
Những nhà phân tách chính trị Trung Quốc và Tây phương không ngừng dẫn chứng thí dụ tiêu cực Ai Cập. Giống như cựu lãnh tụ độc tài Hosni Mubarak, đảng Cộng Sản khá thành công trong việc đè bẹp bất cứ một lực lượng có tổ chức nào trước khi nó có thể mọc rễ.
GS Link nói “Chế độ Trung Quốc hiện nay chắc chắn sẽ sụp đổ ở một thời điểm nào đó - có thể vài tháng, vài năm, hay vài thập niên nhưng khi nó tan vỡ, mọi người sẽ nói dĩ nhiên nó sẽ xẩy ra. Vấn đề làm tôi lo âu là điều gì sẽ tiếp theo. Đảng loại trừ mọi nhóm mà nó không kiểm soát hoặc không nhìn thế giới như đảng và sẽ không có gì cả để thay thế đảng.”
Tai họa Olympic
Chắc chắn chỉ là một sự trùng hợp duyên dáng của lịch sử mà không một chế độ độc tài nào ngoại trừ chế độ dộc tài Mexico tồn tại hơn một thập niên sau khi tổ chức Thế Vận Hội Olympic - hãy nghĩ đến Berlin 1936, Moscow 1980, Sarajevo 1984 và Seoul 1988. Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã thấy những cuộc tranh đua tại Bắc Kinh vào năm 2008 như một “tiệc ra mắt” của đảng trên sân khấu thế giới. Năm năm tới, đảng không những sẽ bất chấp tai họa Olympic này mà còn qua mặt chu kỳ sinh tồn của Liên Xô và giúp đánh đổ học thuyết dân chủ hóa.
Nhưng ngay cả những người bảo vệ chế độ hăng say nhất thừa nhận rằng những lãnh tụ Trung Quốc không thể tiếp tục cai trị vô thời hạn mà không đáp ứng những đòi hỏi được tham gia vào hoạt động chính trị của giới trung lưu ngày càng lớn mạnh. Họ lưu tâm nhiểu đến không khí trong sạch, nước trong sạch, chính quyền trong sạch và thực phẩm an toàn hơn là mức phát triển GDP.
Sau ba chục năm kinh tế bành trướng xuất sắc, mô hình phát triển của Trung Quốc bắt đầu mất sức và nếu Trung Quốc phải đối mặt với sự giảm sút bất ngờ đảng sẽ mất phương tiện chính đáng và dễ thuyết phục nhất để bảo vệ tính cách chính danh. Nếu chủ tịch mới của Trung Quốc Tập Cận Bình nắm lấy sáng kiến và phát động những cuộc cải tổ chính trị ý nghĩa, khi đó Trung Quốc có thể đi theo con đường của Đài Loan và Nam Hàn trong hai thập niên 1980 và 1990 và điều khiển một cuộc chuyển tiếp ôn hòa sang một thể chế dân chủ đa nguyên.
Trong sân Trường Đảng xanh tươi, một vài giáo sư đã nghiên cứu làm thế nào để thực hiện kỳ công này. Nhưng cho đến nay, Tập Cận Bình không bầy tỏ một khuynh hướng nào muốn làm một điều gì ngoại trừ xiết chặt quyền lực trong tay đảng và trừng phạt những kẻ nghi ngờ một chế độ độc đảng vĩnh viễn.
Nhiều người trong và ngoài đảng lo ngại rằng bằng cách chèn ép sự bất mãn của đại chúng bằng những dụng cụ đàn áp cổ điển, chính quyền mới một ngày nào đó ngủ dậy sẽ thấy đại chúng tràn ngập đường phố. GS Shen Zhihua nói “Tập Cận Bình và chính quyền này tạo cho Trung Quốc một cơ hội cuối cùng để thực hiện sự thay đổi xã hội thành một hệ thống chính trị cởi mở hơn từ trong nội bộ của đảng và trong hệ thống. Không có những cải tổ này, chắc chắn sẽ có cuộc bùng nổ xã hội.”20-9-2013
Ông Mao tiên đoán rằng Trung Quốc sẽ phải đương đầu với cuộc khủng hoảng tài chánh không thể tránh được trong một đến ba năm tới vì nợ xấu chồng chất và tình trạng thị trường bong bóng nhà đất, nhưng ông nghĩ rằng chính sự kiện này sẽ đẩy Trung Quốc đến chế độ dân chủ. Ông Mao nói “Tôi nghĩ rằng cuộc khủng hoảng tài chánh có thể thật sự tốt cho Trung Quốc vì nó sẽ buộc chính quyền phải thực hiện những cuộc cải tổ kinh tế và chính trị. Đây sẽ là kịch bản tốt nhất nhưng kịch bản xấu nhất là một cuộc nổi dậy hung bạo, tiếp theo là một giai đoạn dài với bất ổn và kinh tế suy sụp, giống như tình trạng chúng ta thấy tại Ai Cập.”
Những nhà phân tách chính trị Trung Quốc và Tây phương không ngừng dẫn chứng thí dụ tiêu cực Ai Cập. Giống như cựu lãnh tụ độc tài Hosni Mubarak, đảng Cộng Sản khá thành công trong việc đè bẹp bất cứ một lực lượng có tổ chức nào trước khi nó có thể mọc rễ.
GS Link nói “Chế độ Trung Quốc hiện nay chắc chắn sẽ sụp đổ ở một thời điểm nào đó - có thể vài tháng, vài năm, hay vài thập niên nhưng khi nó tan vỡ, mọi người sẽ nói dĩ nhiên nó sẽ xẩy ra. Vấn đề làm tôi lo âu là điều gì sẽ tiếp theo. Đảng loại trừ mọi nhóm mà nó không kiểm soát hoặc không nhìn thế giới như đảng và sẽ không có gì cả để thay thế đảng.”
Tai họa Olympic
Chắc chắn chỉ là một sự trùng hợp duyên dáng của lịch sử mà không một chế độ độc tài nào ngoại trừ chế độ dộc tài Mexico tồn tại hơn một thập niên sau khi tổ chức Thế Vận Hội Olympic - hãy nghĩ đến Berlin 1936, Moscow 1980, Sarajevo 1984 và Seoul 1988. Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã thấy những cuộc tranh đua tại Bắc Kinh vào năm 2008 như một “tiệc ra mắt” của đảng trên sân khấu thế giới. Năm năm tới, đảng không những sẽ bất chấp tai họa Olympic này mà còn qua mặt chu kỳ sinh tồn của Liên Xô và giúp đánh đổ học thuyết dân chủ hóa.
Nhưng ngay cả những người bảo vệ chế độ hăng say nhất thừa nhận rằng những lãnh tụ Trung Quốc không thể tiếp tục cai trị vô thời hạn mà không đáp ứng những đòi hỏi được tham gia vào hoạt động chính trị của giới trung lưu ngày càng lớn mạnh. Họ lưu tâm nhiểu đến không khí trong sạch, nước trong sạch, chính quyền trong sạch và thực phẩm an toàn hơn là mức phát triển GDP.
Sau ba chục năm kinh tế bành trướng xuất sắc, mô hình phát triển của Trung Quốc bắt đầu mất sức và nếu Trung Quốc phải đối mặt với sự giảm sút bất ngờ đảng sẽ mất phương tiện chính đáng và dễ thuyết phục nhất để bảo vệ tính cách chính danh. Nếu chủ tịch mới của Trung Quốc Tập Cận Bình nắm lấy sáng kiến và phát động những cuộc cải tổ chính trị ý nghĩa, khi đó Trung Quốc có thể đi theo con đường của Đài Loan và Nam Hàn trong hai thập niên 1980 và 1990 và điều khiển một cuộc chuyển tiếp ôn hòa sang một thể chế dân chủ đa nguyên.
Trong sân Trường Đảng xanh tươi, một vài giáo sư đã nghiên cứu làm thế nào để thực hiện kỳ công này. Nhưng cho đến nay, Tập Cận Bình không bầy tỏ một khuynh hướng nào muốn làm một điều gì ngoại trừ xiết chặt quyền lực trong tay đảng và trừng phạt những kẻ nghi ngờ một chế độ độc đảng vĩnh viễn.
Nhiều người trong và ngoài đảng lo ngại rằng bằng cách chèn ép sự bất mãn của đại chúng bằng những dụng cụ đàn áp cổ điển, chính quyền mới một ngày nào đó ngủ dậy sẽ thấy đại chúng tràn ngập đường phố. GS Shen Zhihua nói “Tập Cận Bình và chính quyền này tạo cho Trung Quốc một cơ hội cuối cùng để thực hiện sự thay đổi xã hội thành một hệ thống chính trị cởi mở hơn từ trong nội bộ của đảng và trong hệ thống. Không có những cải tổ này, chắc chắn sẽ có cuộc bùng nổ xã hội.”20-9-2013